Thơ như dòng sông ngầm: đọc Thơ Duy Phạm – tập 3 dưới ánh sáng phê bình đương đại

Người viết: TRẦN NHƯ LUẬN

Có những tập thơ đến với người đọc không phải như một tiếng gọi ồn ào, mà như một nhịp thở lặng, một tiếng thầm thì từ đáy tâm thức. Thơ Duy Phạm – tập 3 chính là một hiện diện như thế. Giữa thời buổi thơ ca bị đặt vào thế “đọc nhanh – quên nhanh”, tuyển tập này như một nỗ lực neo giữ lại cảm thức chậm, cảm thức của những điều đã qua và đang trôi, nhưng vẫn còn in dấu trong kí ức tập thể.

Tác giả dựng lên một thế giới ngôn từ mang bóng dáng ca dao, kinh Phật, huyền thoại Đông phương, nhưng đồng thời cũng chan chứa sự thao thức của một con người hiện đại trước vô thường. Chính điều ấy khiến tập thơ đáng đọc, không chỉ như một niềm riêng, mà còn như một đối thoại với thời đại.

Điều đầu tiên dễ nhận thấy ở tập thơ này là cách Duy Phạm tạo ra một “từ điển biểu tượng” riêng. Những từ như xuyến chi, huyết dụ, thập tự, bấc chì, giang đầu, mưa ngâu xuất hiện nhiều lần, gợi một hệ thống ám ảnh dai dẳng. Trong nhãn quan của phê bình hình thứcthi pháp học, đây là một sự lặp có chủ ý: tác giả biến ngôn ngữ thành vân thạch, mỗi lần lặp là một lần khắc vết. Chính điều này tạo nên một phong vị riêng, khiến người đọc dễ dàng nhận diện giọng thơ. Tuy vậy, nguy cơ cũng hiển hiện: sự lặp đi lặp lại nếu không được làm mới có thể trở thành sự cạn kiệt. Dù vậy, phần nhiều bài thơ trong tập vẫn giữ được độ rung cần thiết nhờ biến tấu nhịp ngắt dòng, tạo ra nhiều khoảng lặng cho độc giả “điền nghĩa”.

Ở bài “Ngày về”, hình tượng cầu cong vênh được khắc họa qua nhịp câu ngắn gãy, tạo cảm giác người đọc đang bước trên một chiếc cầu tre run rẩy. Đây là thủ pháp mô phỏng vận động rất đặc trưng, có thể soi rọi bằng phê bình cấu trúc: cái “cầu” không chỉ là cảnh vật, mà là một nút thắt trong hệ thống ký hiệu, nơi tuổi thơ và hiện tại gặp nhau. Bằng ngôn ngữ giản dị, tác giả khơi lại một kí ức tập thể: những chiếc cầu tre làng quê Việt, vừa mong manh vừa kiêu hãnh.

Ở bài “Khái niệm thời gian”, tác giả viết: “Về / thăm ngày xửa ngày xưa… / miền quá vãng chỉ là… hôm nay.” Đây là chỗ mà hậu cấu trúcphê bình hiện sinh gặp nhau. Ý nghĩa không ổn định: “xưa” hóa thành “nay”, quá khứ và hiện tại không còn ranh giới, mà luân chuyển. Người đọc bị đẩy vào một trạng thái nhập nhòe, nơi thời gian không tuyến tính mà gấp nếp. Đọc những câu thơ này, ta nhớ đến T.S. Eliot (Anh–Mỹ, 1888–1965) với khái niệm “time present and time past are both perhaps present in time future”. Nhưng Duy Phạm làm điều ấy theo cách giản dị, gợi ca dao nhiều hơn là triết luận.

Một trong những bài thơ buồn nhất tập là “Lụy khúc”, với câu: “Như tiếng vạc kêu sương mùa trăng lạ / Một tiếng người ngã xuống bóng chiều buông”. Ở đây, phê bình phân tâm học có thể gợi mở: “tiếng vạc kêu sương” là một ám ảnh vô thức, một biểu tượng tập thể về cái chết, về sự cô độc. Nỗi sợ vô thức ấy được phóng chiếu ra thiên nhiên, để rồi tiếng kêu của chim và cái ngã của người hòa làm một. So với Bùi Giáng (Việt Nam, 1926–1998), Duy Phạm không chọn siêu thực rực lửa, mà tiết chế hơn, như một lời cầu siêu thì thầm.

Bài “Hoàng Hạc bay” cho thấy rõ sự liên văn bản. Chỉ một chữ “hoàng hạc”, cả một truyền thống thơ Đường vọng về: bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (Trung Hoa, thế kỷ VIII). Nhưng trong thơ Duy Phạm, cánh chim không chỉ là sự ra đi bất tận, mà còn là ẩn dụ cho bản ngã lạc hướng. Bằng cái nhìn của phê bình hậu thực dân, ta có thể thấy ở đây sự đối thoại giữa một thi sĩ Việt với di sản Trung Hoa: tiếp nhận nhưng cũng biến hóa, để biến biểu tượng cũ thành tiếng lòng riêng.

Đặc biệt ấn tượng là bài “Chiều ca dao”: “ta phiên chợ cuối chèo queo bóng mình / tre lắc lẻo / ván gập ghềnh”. Chữ “chèo queo” là một sáng tạo ngữ âm độc đáo. Ở góc độ phê bình ngôn ngữ học cấu trúc, đó là sự kết hợp giữa hình và âm: chữ gợi dáng cong queo, đồng thời phát ra một âm thanh chênh vênh. Người đọc vừa nhìn thấy vừa nghe thấy. Đây chính là chỗ mà thơ trở thành một “đa giác quan”.

Bài “Bài thơ viết đã trăm năm” lại mang một sắc thái tự ý thức: “chữ nào chưng cất thành khuôn / đúc ngàn dị bản thành chuông tiễn người”. Ở đây, tác giả thẳng thắn nhận thơ như một công việc “nấu chữ”. Bằng phê bình Marxist, ta có thể đọc câu thơ như một sự tự thú: nhà thơ cũng là “thợ”, chữ cũng là “công cụ”, sản phẩm làm ra không chỉ để chơi mà còn để phục vụ cộng đồng – “tiễn người”. Nhưng cũng có thể đọc theo phê bình hậu cấu trúc: bài thơ không bao giờ ổn định, luôn có “ngàn dị bản”.

Một bài khác, “Xuyến chi”, đem đến nốt trữ tình nữ tính: “em / cánh hoa dại ven đường / tên gọi … xuyến chi”. Đây là trường hợp có thể soi bằng phê bình nữ quyền: người nữ hiện lên không phải trong dáng kiêu sa, mà ở sự nhỏ nhoi, bền bỉ, chịu thương chịu khó – một hình ảnh đã bị văn học nam quyền bỏ quên lâu nay. Bằng cách chọn “hoa dại” thay vì “hoa vườn”, Duy Phạm trao lại phẩm giá cho cái bé nhỏ.

So với những gương mặt thơ đương đại khác, vị trí của Duy Phạm hiện ra rõ hơn. Nguyễn Quang Thiều (Việt Nam, sinh 1957) thường chọn ngôn ngữ giàu nhạc tính và hình tượng mộng mị để dẫn người đọc vào thế giới siêu thực thấm đẫm tâm linh. Inrasara (Việt Nam, sinh 1957) lại mở ra một cánh cửa hậu hiện đại, nơi thơ trở thành không gian thử nghiệm ngôn ngữ và đặt ra các câu hỏi về căn tính Chăm, về bản sắc văn hóa. Duy Phạm khác họ ở chỗ: anh không thiên về mê hoặc nhạc tính, cũng không đẩy thơ vào thử nghiệm cực đoan, mà đi con đường trung đạo: dung dị, nhiều biểu tượng đời thường, nhưng thấm đẫm triết lý vô thường. Chính sự khác biệt này giúp anh giữ cho giọng thơ vừa có cá tính, vừa không tách khỏi cộng đồng độc giả rộng rãi.

Tổng thể, Thơ  Duy Phạm – tập 3 cho thấy một sự hòa phối của nhiều yếu tố: chất dân gian Việt (ca dao, tục ngữ, chợ quê), chất tôn giáo (Phật giáo, Kitô giáo), chất cổ thi Đông phương (thơ Đường, chữ Hán), và chất hiện đại (ngắt dòng, trùng điệp biểu tượng). Nếu đọc qua lăng kính phê bình sinh thái, ta cũng thấy rõ một điều: thiên nhiên trong thơ không chỉ là cảnh trí, mà còn là một nhân vật, một đồng minh, một tiếng vọng về sự hữu hạn của kiếp người. Cây tre, bến sông, cánh hoa dại… đều trở thành chứng nhân của vô thường.

Theo tôi, giá trị lớn nhất của tập thơ nằm ở chỗ nó đem lại một không gian “chậm”, nơi người đọc có thể tạm thoát khỏi tốc độ gấp gáp của đời sống số. Dưới ánh sáng phê bình tiếp nhận, có thể nói tác phẩm này không khép kín, mà luôn chờ được hoàn tất nơi người đọc. Mỗi lần đọc, người đọc sẽ kiến tạo một ý nghĩa mới, bởi biểu tượng trong thơ vốn bất định. Đó cũng chính là tinh thần của hậu cấu trúc: ý nghĩa không ở đâu xa, mà ở chính quá trình đọc.

Vậy Thơ  Duy Phạm – tập 3 có đáng đọc không? Câu trả lời là có. Chúng ta nên nghiền ngẫm nó. Nó không phải là một tập thơ gây sốc, cũng không tìm cách “bẻ chữ” để trở nên thời thượng. Nó chọn cách thì thầm, dựng một thế giới riêng nhưng không đóng kín, mở nhiều cánh cửa cho những cách đọc khác nhau: từ phân tâm, nữ quyền, hậu thực dân, đến sinh thái và tiếp nhận. Nó phù hợp cho những độc giả yêu chuộng sự chiêm nghiệm, những người muốn tìm một góc lặng trong tâm trí, cũng như những ai quan tâm đến tiến trình vận động của thơ Việt đương đại.

Đọc Duy Phạm, ta có cảm giác đang đi trên một con đường làng sau mưa: bùn đất còn ướt, tre vẫn rung, vạc còn kêu; nhưng ở cuối con đường ấy, có một bông xuyến chi nở, trắng đến nao lòng. Và chính hình ảnh nhỏ bé ấy làm ta tin rằng, thơ vẫn còn khả năng nâng đỡ đời sống – dù mong manh, dù lặng lẽ, nhưng bền bỉ như chính những cánh hoa ven đường.

                                                                                                                 Ảnh: Chân dung nhà thơ Duy Phạm – do tg cung cấp 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *