THƠ MỚI – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Nhằm phục vụ chương trình đào tạo on line của Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Văn chương Việt Nam dành cho các TV của Trung tâm, và những người yêu văn chương có được những hành trang cần thiết nhất trong cuộc hành trình đến với Văn chương Việt Nam của mỗi người. Kể từ hôm nay, chúng tôi sẽ lần lượt đăng mỗi ngày một bài viết về các thể thơ. Khởi đầu sẽ là những câu chuyện về thể thơ mới. Mời các bạn đón đọc chương trình “ HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM “ trên website “ unesco văn chương Việt Nam”, và mong chương trình sẽ được sự lan tỏa.   

 Hành trình thứ nhất

THƠ MỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

HƯƠNG THU

Ngược dòng lịch sử văn học Việt Nam để có cái nhìn toàn diện về bối cảnh lịch sử văn học, chúng ta thấy: Thơ Mới đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển cũng không kém phần cam go để chiến thắng được dòng thơ cũ vốn đã có cội rễ lâu đời, và trụ lại cho đến ngày hôm nay.

Có thể nói, thơ mới được hình thành từ năm 1914 – khi tờ Đông Dương Tạp chí cho đăng tải bài thơ “Con ve và con kiến” của Nguyễn Văn Vĩnh, dịch từ nguyên tác bài thơ “La cigale et la formi” của Lafontaine.

La cigale et la fourmi

La cigale, ayant chanté
Tout l’été,
Se trouva fort dépourvue
Quand la bise fut venue:
Pas un seul petit morceau
De mouche ou de vermisseau.
Elle alla crier famine
Chez la fourmi sa voisine,
La priant de lui prêter
Quelque grain pour subsister
Jusqu’à la saison nouvelle.
“Je vous paierai, lui dit-elle,
Avant l’août, foi d’animal,
Intérêt et principal.”
La Fourmi n’est pas prêteuse:
C’est là son moindre défaut.
“Que faisiez-vous au temps chaud?
Dit-elle à cette emprunteuse.
– Nuit et jour à tout venant
Je chantais, ne vous déplaise.
– Vous chantiez? j’en suis fort aise:
Eh bien! dansez maintenant.”

bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh 

Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời!
Xin đủ cả vốn lời
Tính Kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy
Ve rằng: Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác!
Kiến rằng: Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây

                                                                                                                                           

Sau đó, đến năm 1917, trên tờ Nam Phong tạp chí số 5 ra tháng 11, Phạm Quỳnh có bài : “bàn về thơ Nôm” đã cho rằng: Thơ cũ gò bó và trói buộc người làm thơ vào những luật lệ phiền phức, khắt nghiệt, khác nào bắt người ta phải vừa đeo gông – một cái gông khá nặng nề – vừa làm thơ! Điều này khiến cho những cảm xúc của người làm thơ không được tự nhiên lắm. Tuy nhiên Phạm Quỳnh cũng không hề bác bỏ thơ cũ. Ông chủ trương lấy cái nền của thơ cũ, mở rộng phạm vi của niêm luật, bỏ bớt điển tích nặng nề. Nghĩa là, chỉ cần tháo bớt một đôi cái khóa trên cái gông mà người làm thơ phải gánh vác, đồng thời tiếp nhận thêm một ít phong cách mới của dòng thơ nước ngoài, để cho câu chữ được mới mẽ hơn, bớt đơn điệu và nhàm chán. Việc làm của Phạm Quỳnh, chẳng qua cũng như một cách để thăm dò dư luận, ông chưa dám thẳng thắn tuyên chiến với nền thơ cũ.

Mãi đến năm 1928, trên tờ Đông Pháp Thời Báo, Phan Khôi đã thật sự châm ngòi lửa tuyên chiến với thơ cũ bằng một bài viết mang nội dung đã kích kịch liệt, không khoan nhượng. Trong một bài ở Chương Dân Thi Thoại, ông viết: “… Từ ngày đem Thất ngôn luật vào khoa cữ, rồi thì thể ấy trở nên bó buộc quá, mất cả sinh thú…” ông lại viết: “… Thấy có một vài cuốn sách Quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi, mà cũng dạy theo lối thi khoa cữ ấy thì thật tức quá. Thi quí nho nhã, mà đã tục tài thì dạy ai? …”.

Cũng trong năm này tờ Trung Bắc Tân Văn cho đăng lại bài thơ “Con ve và con kiến” của Nguyễn Văn Vĩnh như một thí dụ điển hình cho sự mới mẻ của một nền thơ mới cần được ra đời.Thế nhưng, cũng chẳng phải dễ dàng gì khi muốn thay đổi một thói quen, nhất là thay đổi một thói quen về tư duy lại càng khó. Phát đại pháo đầu tiên của những người muốn cổ súy cho nền thơ Mới như rơi vào khoảng không im lặng không một sự phản hồi! Những tác giả của nền thơ cũ cũng không buồn tranh cải vì nghĩ rằng: “Bọn trẻ nông nổi thế thôi, chứ làm gì quật ngã được một nền thơ ca đã có tự lâu đời”. Một số khác, trong lòng cũng rất muốn có một sự đổi mới, song còn e dè. Riêng những người làm thơ trẻ thời ấy, cũng mong muốn một sự đổi mới, nhưng chính họ cũng rơi vào sự lúng túng, bế tắc, không biết phải đổi mới như thế nào! Họ muốn được tự mình cởi trói cho mình ra khỏi những ràng buộc khắt khe của nền thơ cũ, nhưng họ lại lờ mờ, không biết phải làm cách nào! Họ muốn bước ra khoảng trời mênh mông gió ngàn bất tận ngoài kia, đón lấy một nguồn sinh khí mới, nhưng chính họ lại cũng nghi ngại, không biết khoảng trời họ đang tìm kiếm có gì bất trắc?

                                                                                                                                              Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh 

Cuộc chiến của thơ Mới tưởng như đã rơi vào im lặng, mãi đến gần 5 năm sau, trong số báo ra ngày 10-3-1932, tờ Phụ Nữ Tân Văn đã cho trình làng bài thơ “Tình già” của Phan Khôi. Bài thơ đã thực sự gây sóng gió xôn xao trong làng thơ thời ấy. Nó ra đời thật đúng lúc, và rất cần thiết cho một sự chuyển mình của một nền thơ ca đang muốn tìm kiếm những mới lạ để tự vươn lên. Như tiếng pháo xuân rộn ràng đầy náo nức, bài thơ đã tạo thêm niềm tin và động cơ thúc dục những người còn e dè với nền thơ mới mạnh dạn tham gia vào phong trào đả kích thơ cũ.

Song song với việc trình làng đứa con cưng của thơ mới, Phan Khôi đã không ngần ngại phản bác kịch liệt thơ cũ, ông cho rằng: Đã đến lúc phải cởi trói cho người làm thơ – trong đó có ông – được thoát khỏi những khuôn phép sáo mòn, cũ kỹ làm chai sạn niềm thi hứng. Ông viết: “Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Bạch, ông Đỗ, ông Tô… choán hết trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra…”, và theo ông, việc đổi mới cho nền thơ Việt Nam là một việc làm hết sức cần thiết và thúc bách. Suy Nghĩ này của Phan Khôi đã được rất nhiều người thời bấy giờ ủng hộ, trong đó có Lưu Trọng Lư.

Bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, xét cho cùng không phải là bài thơ mới đầu tiên, song nó là một bài thơ được cho ra đời đúng lúc, khi những người làm thơ thời ấy đang chờ đợi một sự kiện mới lạ làm thay đổi tư duy của lớp người cũ, thì “Tình già” xuất hiện. Nó như một tiếng trống được  gióng lên và phá tan cái không gian tĩnh lặng, trầm mặc của những trăng cổ độ, của đám phù vân, của tranh vân cẩu …và như thế là chiến tranh giữa hai tư tưởng cũ và mới bùng nổ.

Người đầu tiên đứng về phía thơ cũ, lên tiếng phản kích lại thơ mới là ông Vân Bằng. Ông Vân Bằng đã dùng những lý luận đanh thép, cộng thêm những lời phê phán mỉa mai để bảo vệ thơ cũ và công kích thơ mới. Một bài viết của ông với nhan đề: “Tôi thất vọng vì Phan Khôi” đã được đăng trên An Nam Tạp chí số 39 ra ngày 30-4-1932. Bài viết với lý luận vững chắc bảo vệ tư tưởng của mình, đồng thời phản bác lại Phan Khôi khá nặng nề.

Thế là cuộc bút chiến đã bắt đầu!

Báo Phong Hóa đại diện cho phe Thơ Mới, trong số 14 ra ngày 22 – 9 – 1932 đã phản hồi bằng những bài báo đã kích kịch liệt phái thơ cũ và lên tiếng kêu gọi mọi người ủng hộ phong trào Thơ Mới. Phong Hóa viết: “Phong Hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bó buộc vào khuôn sáo của lối thơ Đường luật… bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng

                                                                                                                                           Trang đầu báo Phong Hóa số 14

Cuộc chiến giữa thơ mới và thơ cũ không chỉ dừng lại ở mặt trận bút chiến, mà còn chuyển sang một mặt trận khác – mặt trận khẩu chiến! Đúng vậy, nhiều cuộc đăng đàn diễn thuyết của cả hai bên cứ liên tục được mở ra nhằm bảo vệ cho phe mình và bài xích phe đối lập.

Bà Nguyễn Thị Kiêm, tức nữ sĩ Manh Manh, người Tiền Giang, đã mở diễn đàn đầu tiên gây chấn động trong dư luận, phía Thơ Mới sôi nổi hẳn lên vì âm vang của cuộc diễn thuyết mang đầy tính thuyết phục của nữ sĩ Manh Manh. Vốn xuất thân từ Trường Áo Tím (nữ trung học Gia Long, bây giờ là trường Nguyễn Thị Minh Khai) một trường nữ nổi tiếng ở Miền Nam. Khi Phan Khôi khởi xướng phong trào Thơ Mới, Manh Manh đang là phóng viên của một tờ báo ở Sài Gòn. Vốn tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, luôn ao ước và muốn khám phá những điều mới lạ, Manh Manh nhiệt tình hưởng ứng phong trào bài xích thơ cũ, ủng hộ thơ Mới. Sau diễn đàn của Manh Manh, nhiều diễn đàn khác liên tục được tổ chức.

                                                                                                                                                        Nữ sĩ Manh Manh 

Phía thơ cũ cũng chẳng chịu kém cạnh gì, cũng liên tục đăng đàn bảo vệ tư tưởng của phía mình. Đặc biệt có hai diễn đàn được mở ra cùng lúc vào tháng 9 – 1935 cũng cùng một địa điểm: Hội khuyến học Sài Gòn của hai phe cũ – mới, với hai diễn giả đại diện cho hai phía là: Manh Manh (thơ Mới) và Nguyễn Văn Hanh (Thơ cũ)

Một tuần sau cuộc diễn thuyết của Manh Manh, Ông Tân Việt báo Công Luận cũng lên diễn đàn tại Hội khuyến học Sài Gòn đưa ra nhiều lập luận phản bác lại lối thơ mới.

Nhiều tờ báo cũng nhảy vào cuộc chiến giữa hai bên. Phía thơ cũ có các tờ: An nam Tạp chí, Công Luận, Văn học Tạp chí, Tiếng Dân, Văn học Tuần San, Tin Văn…với những cây bút chủ lực như: Tản Đà, Hoàng Duy Từ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Thái Phi, Huỳnh Thúc Kháng, Thương Sơn, Động Đình…

Phía thơ Mới có các báo: Phong Hóa, Phụ Nữ Tân Văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Loa, Ngày nay… với những cây bút trụ cột như: Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh, Phan Khôi, Lê Ta…

Ngoài những bài viết sắc bén của cả hai bên, đặc biệt phía thơ cũ đã sử dụng sở trường của mình, đưa lên một bài xướng thất ngôn bát cú của Tản Đà đăng trên An Nam Tạp chí, khiêu chiến với Phong Hóa. Đó là một bài thơ gieo vần trắc:

                                                                                                                                                         Thi sĩ Tản Đà 

NHẮN ANH PHONG HÓA

Mấy lời nhắn nhủ anh Phong Hóa

Báo đến như anh thật láo quá!

Suốt tháng cứ loa không ngớt mồm

Sang năm nhớ liệu phải kềm khóa

Ông ninh ông nỉnh chớ nên mà …

Tái tứ tái tam đừng trách nhá!

Đồng nghiệp chút tình mới bảo nhau

Thổi đi, nhờ gió … mong văn hóa!

TẢN ĐÀ

Phong Hóa cũng không chịu thua, dùng ngay lối thơ Đường luật của đối phương để họa đáp lời

Bài họa:

Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hóa

Sặc sụa hơi men khó ngửi quá!

Đã dạy bao lần tai chẳng nghe

Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa

Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu

Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!

Phong hóa mà không hóa nổi anh

Túy nhân quả thật là nan hóa!

Và cũng từ đó, cuộc chiến đấu để dành một chỗ đứng trên Thi đàn Việt Nam của phía Thơ Mới càng gay go trước sự tử thủ cũa những nhà thơ cũ.

Càng ngày, cuộc chiến càng trở nên sôi nổi. Sôi nổi và căng thẳng, bởi hai bên đều không muốn lùi bước. Báo Phong Hóa liên tục cho đăng tải những bài viết lăng mạ, bài xích thơ cũ và tán dương thơ Mới. Thật chẳng may cho Tản Đà, lúc bấy giờ ông được coi là một nhà thơ tiêu biểu cho phía thơ cũ, lại là một nhà thơ tài hoa có tiếng, do đó phái thơ Mới liên tục chĩa mũi dùi vào ông. Thật ra không phải họ muốn tấn công Tản Đà, bởi tự trong thâm tâm những người hô hào cho thơ Mới như Lưu Trọng Lư chẳng hạn, cũng rất kính phục và mến mộ Tản Đà. Song họ nghĩ rằng: Nếu đánh gục được Tản Đà, tức là họ đả đánh đổ được bức tường thành kiên cố của thơ cũ, đó cũng là một cách để dọn đường cho đoàn binh hùng hậu đầy nhiệt huyết của Thơ Mới xông lên chiếm lĩnh thi đàn.

Có điều cần phải nói rõ ở đây, mặc dù Lưu Trọng Lư là người hô hào nhiều nhất cho phong trào thơ Mới, song ông không hề chỉ trích lớp người đi trước, ông chỉ giải thích với họ những khác biệt giữa hai thế hệ cũ  – mới, rồi để yên cho họ suy ngẫm. Cũng như vậy, Tản Đà luôn giữ thái độ trầm tĩnh, mặc dù báo Phong Hóa và những người ủng hộ thơ Mới luôn đem ông ra để làm đề tài châm biếm.

Ngày 30-11-1934, trên Tiểu thuyết Thứ bảy, Tản Đà có viết một bài với nhan đề: “Phong trào thơ Mới”, và ông cho rằng: Thực ra cái mà những người gọi là mới, thì chính bản thân ông đã thực hiện cách đây những 20 năm, những bài thơ không theo lối cũ, nhưng ông cũng không gọi là thơ Mới, nhưng nó lại chính là cái mới mà những người đương thời đang muốn hô hào và tìm kiếm. Rồi ông cho đăng bài thơ ông đã viết trong tiểu thuyết “Giấc mộng con II”, làm cho Dương Quý Phi, bài thơ như sau:

Non xanh xanh

Nước xanh xanh

Nước non như vẽ bức tranh tình

Non nước tan tành

Giọt lệ tàn canh

 

Đêm năm canh

Lụy năm canh

Nỗi niềm non nước

Đố ai quên cho đành

Quên sao đành

Nhớ sao đành

Bồng lai non nước xanh xanh

Bài thơ không những mới về từ ngữ, mà còn mới cả về nội dung lẫn hình thức. Cho đến bây giờ, trải qua bao nhiêu thời gian, bài thơ vẫn không có gì lạc lõng so với thời đương đại. Thế mới biết, Tản Đà quả là một nhà thơ tài hoa, và nếu công bằng mà nói, ông mới chính là người làm thơ mới sớm nhất, trước cả lúc phong trào thơ mới chưa hình thành.

Ngày nay, nếu chúng ta đứng trên lập trường khách quan của người làm công tác văn học, đọc và suy ngẫm lại bài thơ trên của Tản Đà, rồi so sánh với « Tình già » của Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy bài « tình già » so với thời đại ngày nay quả không thích hợp chút nào. Ngôn ngữ và tư tưởng đều bị lỗi thời. Một bài thơ có giá trị thật sự khi nó luôn sống mãi với thời gian, và thi sĩ Tản Đà đã làm được điều đó.

TÌNH GIÀ

Hai mươi bốn năm xưa

Một đêm vừa gió lại vừa mưa

Dưới ngọn đèn mờ

Trong gian nhà nhỏ

Hai mái đầu xanh kề nhau than thở :

Ôi! Đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng

Mà lấy nhau hẳn là không đặng

Để đến nỗi tình trước phụ sau

Chi bằng sớm liệu mà buông nhau

Hay! nói mới bạc làm sao chớ!

Buông nhau làm sao cho nỡ!

Thương đặng chừng nào hay chừng nấy

Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy

Ta là nhân ngãi

Đâu phải vợ chồng mà tính chuyện thủy chung

 

Hai mươi bốn năm sau

Tình cờ đất khách gặp nhau

Hai mái đầu đều bạc

Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được

Ôn chuyện cũ mà thôi

Liếc đưa nhua đi rồi

Con Mắt còn có đuôi

PHAN KHÔI

Cuối cùng, lẽ tất nhiên, cuộc chiến nào cũng có lúc phải dừng lại và có một bên chiến thắng. Thơ cũ ngày càng yếu dần đi, trước một lực lượng ngày càng đông đảo của giới trẻ. Thơ Mới ngang nhiên bước lên Thi đàn Việt Nam với ngọn cờ chiến thắng giương cao. Những người làm thơ cũ, đành lui về hậu cứ, sống với niềm say mê và lý tưởng của mình một cách thầm lặng, giữ gìn ngọn lửa trong tim để chờ ngày thắp sáng lại những áng thơ Đường luật mà họ yêu thích.

Thơ Mới đăng quang và ngày càng phát triển với nhiều tác giả, tác phẩm. Song thơ Mới không dừng lại ở đó, luôn tự đổi mới để thích nghi với từng hoàn cảnh, từng thời đại. Như Hoài Thanh, tôi cũng nghĩ rằng: Thơ là thơ, không có mới hay cũ, chỉ có người làm thơ là mới hay cũ mà thôi. Thể loại chỉ là phương tiện để chúng ta thể hiện cảm xúc.

HT

One thought on “THƠ MỚI – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *