tác giả: Đặng Thị Quảng Bình
Đến với bài
BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
của Trương Hán Siêu
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông các bô lão, hỏi hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”.
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối !
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu thoát hiểm cốt mình đức cao.”
ĐÔI NÉT VỀ DÒNG SÔNG HUYỀN THOẠI BẠCH ĐẰNG
Dòng sông Bạch Đằng hay còn gọi là Bạch Đằng Giang thuộc tỉnh Quảng Ninh, thuộc hệ thống sông Thái Bình. Năm 938, Ngô Quyền cho dựng bãi cọc ngầm dưới sông để đánh quân Nam Hán, kháng chiến thắng lợi. Năm 1288, cũng với kế sách dựng cọc ngầm, thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông cùng đại tướng Trần Hưng Đạo lãnh đạo quân đội Đại Việt chiến thắng quân Mông Nguyên. Bạch Đằng Giang trở thành địa danh lịch sử nổi tiếng, minh chứng cho chiến công hiển hách của cha ông, con sông là đề tài bất tận cho thơ ca, nhạc họa. Rất nhiều thi sĩ đã sáng tác về Bạch Đằng để bày tỏ tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ca ngợi các trận thủy chiến hùng tráng năm nào. Nguyễn Sưởng viết “Bạch Đằng giang”, Nguyễn Trãi viết “Bạch Đằng hải khẩu”, Trương Hán Siêu viết “Phú sông Bạch Đằng” – kiệt tác văn học nổi tiếng nhất.
TÁC GIẢ BÀI PHÚ
Trương Hán Siêu (chữ Hán: 張漢超)Tự là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu, là một vị quan, một danh nhân văn hóa đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng Giang phú – một áng thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền…
Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Thời trẻ, ông bài xích đạo Phật, nhưng vua không trách, còn bổ ông làm quản tự cho một ngôi chùa lớn. Về cuối đời, ông lại là người sùng đạo Phật và những sáng tác của ông cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng này. Các tác phẩm của ông hiện còn 17 bài thơ: Cúc hoa bách vịnh, Hoá Châu tác, Dục Thuý sơn, Quá Tống đô. Về văn xuôi ông có 2 bài: Khai Nghiêm tự bi ký và Dục Thuý sơn linh tế tháp ký, cả hai bài đều được viết bằng chữ Hán.
– Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học sĩ.
– Năm, 1314, vua Trần Minh Tông phong Trương Hán Siêu giữ chức Hành khiển.
– Năm 1339, vua Trần Hiến Tông phong Trương Hán Siêu làm môn hạ hữu ty lang trung.
– Năm 1342, vua Trần Dụ Tông phong Trương Hán Siêu làm tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự (như chức Thượng thư). Năm Quý Tỵ
– 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn. Tháng 11 năm sau, ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua cho truy tặng hàm thái bảo
– Năm 1363, thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng Trương Hán Siêu chức thái phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời xưa.
Không biết ông sinh năm nào, nhưng mất năm 1354.