HƯƠNG THU
Sau khi kết thúc cuộc chiến giữa mới và cũ, thơ Mới được lên ngôi với ngọn cờ chiến thắng. Lúc bấy giờ những nhà thơ bắt đầu đi tìm những nét mới cần phải có trong thơ, song họ cũng chưa biết bắt đầu từ đâu. Đả phá cái cũ, nhưng những nhà thơ thời bấy giờ cũng chưa biết phải xây dựng cái mới như thế nào. Một số người đã quen với lối thơ Đường luật, họ làm mới bằng cách lấy khuôn khổ của thơ Tứ Tuyệt Đường luật, nhưng triển khai thành nhiều đoạn. Ngày nay một số người làm thơ vẫn lầm tưởng và cho rằng thể thơ này là một biến thể của thơ Đường luật. Thậm chí có người còn bảo rằng đó là thơ “Tứ tuyệt trường thiên”. Điều này hoàn toàn sai, vì thật ra Tứ tuyệt Đường thi, chỉ có duy nhất một thể bốn câu (sẽ bàn trong bài viết về các chính thể của thơ Đường luật). Trở lại vấn đề thơ Mới, ngoài một số tác giả sáng tác theo lối thơ tứ tuyệt làm thành nhiều khổ thơ, một số tác giả khác, mượn lối thơ 8 chân, 12 chân của Pháp để sáng tác.
Vậy, thực ra thơ Mới là thể thơ như thế nào?
Để giải nghĩa đúng về thơ Mới, chúng ta phải đi tìm nguồn gốc của thơ Mới
Như đã nói ở trên, Thơ Mới bắt nguồn từ lối thơ của Pháp, đó là lối thơ không hạn định số câu, số chữ, không có niêm luật, không cần đối ngẫu, và có nhiều cách gieo vần. Các nhà thơ Mới thời bấy giờ thích thể thơ này vì sự phóng khoáng, không gò bó của nó, vì vậy một số người đã đổi mới bằng cách sáng tác theo lối thơ của Pháp.
Vậy, trước khi bàn về cách sáng tác Thơ Mới, chúng ta hãy thử tìm hiểu về lối thơ của Pháp như thế nào.
Thơ của Pháp
Ngoài những lối thơ định thể (poèmes à forme fixe) nghĩa là đã định sẳn số câu và cách hiệp vần. Chúng ta có thể tạm gọi đây là lối thơ luật của Pháp như: Sonnet, ballade, rondeau… còn lại đều theo những cách thức rất thoáng với những cấu trúc sau:
1. Số câu:
không bắt buộc, dài ngắn tùy cảm xúc của tác giả, có thể viết liền một mạch từ trên xuống không phân đoạn, cũng có thể phân ra nhiều đoạn, mỗi đoạn từ 4 – 10 câu, có khi chỉ 6 hay 8 câu
2. Số chữ trong câu:
Dài ngắn không nhất định. Có thể một câu dài, chen một câu ngắn, cũng có thể làm liền một mạch những câu có độ dài như nhau..
3. Cách gieo vần:
Nếu thơ Đường luật phân biệt vần trắc và vần bằng, thì thơ Pháp phân biệt dương vận và âm vận. Dương vận, là những vần đằng sau có âm kêu. Âm vận, là những vần đằng sau có âm câm. Trong thơ Pháp câu nào cũng gieo vần.
Có nhiều cách gieo vần:
– Vần liên tiếp: cứ hai dương vận, lại đến hai âm vận và ngược lại.
– Vần gián cách: cứ lần lượt một dương lại một âm
– Vần ôm nhau: giữa hai âm vận là hai dương vận, hoặc ngược lại.
– Vần trùng điệp: Một dương vận hoặc một âm vận được gieo liên tiếp ít nhất ba vần liền nhau.
– Vần hỗn tạp: Dương vận và âm vận đặt lộn xộn không theo một thứ tự nào.
NHỮNG NHÀ THƠ MỚI ĐÃ TÌM HƯỚNG ĐI NHƯ THẾ NÀO?
Trải qua thời gian đầu, dần dần những người sáng tác thơ Mới cũng tìm được hướng đi cho mình. Chủ yếu họ đã đổi mới theo hai phương diện:
- Về tinh thần: Đổi mới từ tư tưởng đến cách nghĩ, và đề tài, không theo lối ngâm vịnh phong hoa tuyết nguyệt của thơ cũ. Người làm thơ trải hồn và cảm xúc theo những sự việc xảy ra chung quanh, khám phá bên trong cá thể, quan tâm nhiều đến đề tài về tình yêu lứa đôi.
- Về hình thức:
Có hai cách:
– Vẫn giữ khuôn khổ lối thơ cũ, nghĩa là số câu vẫn dùng theo lối tứ tuyệt, hoặc bát cú và đặt thành nhiều khổ liên tiếp nhau. Số chữ họ chọn dùng theo lối ngũ ngôn, hoặc thất ngôn nhưng không theo luật bằng trắc (như lối Cổ Phong) và thay đổi cách gieo vần, cách ngắt nhịp trong câu.
– Đi theo lối mới hoàn toàn, dựa trên lối thơ của Pháp.
Sau đây là cách các nhà thơ mới thời kỳ 1932 đã lựa chọn, và đó cũng là cách để sáng tác một bài thơ mới.
CÁCH SÁNG TÁC MỘT BÀI THƠ MỚI
1. SỐ CÂU:
không nhất định, dài ngắn bao nhiêu cũng được, có thể viết liên tiếp một mạch, cũng có thể chia thành từng khổ. Số câu trong khổ cũng không nhất định, ít nhất 4 câu, thông thường 8 câu hay 10 câu…
2. SỐ CHỮ TRONG CÂU:
Không nhất định, từ 2 – 12 chữ. Có bài có những câu dài ngắn chen nhau, có bài đi liền một lúc bốn năm câu có số chữ giống nhau. Đó là lối viết dựa theo thơ của Pháp, nhưng đa phần các tác giả thường hay lấy theo số chữ của lối thơ cũ như:
– Lối câu 5 chữ:
MÙA THU
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
LƯU TRỌNG LƯ
– Lối câu 6 chữ:
Giấy mực đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa phô giữa chợ đời
Những nghĩ e hồng thẹn tía
Chi cho bướm cợt ong cười
ĐÔNG HỒ
( trích : Giữa chợ đời)
– Lối câu 7 chữ:
Ngày xưa chọn áo chung hai đứa
Em vẫn nhờ anh em nhớ không?
Áo cưới sao em nhờ kẻ khác
Để anh chờ đợi chỉ hoài công
NHẤT TUẤN
(Chuyện chúng mình )
– Lối câu 8 chữ:
Vào đêm tối, tôi sẽ làm đuốc sáng
Rọi u minh tỏ rạng ánh hồn sâu
Đến ru thơ bao kẻ hãy buồn đau
Tìm ấp mộng những hồn sầu rã mục
XUÂN DIỆU
(Đa tình)
– Lối câu 10 chữ:
Chiều thu, sau rặng tre xa mặt trời khuất bóng
Ánh sáng còn rải rác trên cánh đồng xa rộng
Đám mây chiều trắng xám đã nổi ở chân trời
Từ xa lại, gió thu làm man mác lòng người
NGUYỄN VĂN KIỆN
( Trích : Trên đường về – báo Phong Hóa, số 61, trang 3)
– Lối câu xen kẻ:
Đó là trường hợp trong bài có sử dụng một lối câu, nhưng có xen vào một ít câu ngắn hơn, hoặc dài hơn, ví dụ: bài Nhớ rừng của Thế Lữ, đa phần là lối câu 8 chữ, nhưng thỉnh thoảng có chen câu 9 chữ.
Thí dụ:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang san ta đổi mới (9 chữ)
THẾ LỮ
(Trích :Nhớ rừng)
III. CÁCH GIEO VẦN:
-
Nguyên tắc chung:
- Thường thì mỗi câu, mỗi gieo vần, nghĩa là câu nào cũng có vần
- Vần được gieo cả vần bằng và vần trắc
-
Thể thức gieo vần:
-
Vần liên tiếp: Có hai cách:
+ Gieo liên tiếp hai vần trắc, rồi đến hai vần bằng, cứ thế tiếp tục… và ngược lại.
thí dụ:
Chiều thu, sau rặng tre xa mặt trời khuất bóng (T)
Ánh sáng còn rải rác trên cánh đồng xa rộng (T)
Đám mây chiều trắng xám đã nổi ở chân trời (B)
Từ xa lại, gió thu làm man mác lòng người (B)
NGUYỄN VĂN KIỆN
+ Đối với những bài thơ chia khổ 4 câu, vần được gieo như sau: cứ hai vần bằng, đến một vần trắc, cuối cùng là một vần bằng.
thí dụ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang (B)
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng (B)
Đây mùa thu tới, mùa thu tới (T)
Với áo mơ phai dệt lá vàng (B)
LƯU TRỌNG LƯ
( Đây mùa thu tới)
– Vần gián cách:
Cứ một vần bằng, lại đến một vần trắc, cứ như thế hết khổ, hay bài thơ
Thí dụ:
Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt
Mùa xuân còn hết, khách đa tình ơi!
Cũng với cách gieo vần gián cách, nhưng ở một số bài thơ, nhất là lối thơ 7 chữ, thì chỉ có vần bằng, những chữ trắc không có vần
Thí dụ:
Em đã dặn anh đừng uống nữa (không vần)
Vì đâu anh đã lại say rồi!
Hãy cho anh trái lời em dặn (không vần)
Một lần, và lần nữa… mà thôi
LƯU TRỌNG LƯ
(Uống)
– Vần ôm nhau:
Giữa hai vần trắc chen vào hai vần bằng, hoặc ngược lại
Thí dụ 1:
HỒN XƯA
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay
Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh, với những người đã chết
Tự bao giờ còn phảng phất đâu đây
VŨ ĐÌNH LIÊN
Thí dụ 2:
Vào đêm tối, tôi sẽ làm đuốc sáng
Rọi u minh tỏ rạng ánh hồn sâu
Đến ru thơ bao kẻ hãy buồn đau
Tìm ấp mộng những hồn sầu rã mục
XUÂN DIỆU
(Đa tình)
– Vần hỗn tạp:
Các vần bằng trắc không theo thứ tự nhất định
Thí dụ:
Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyện…mây bay …
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
THẾ LỮ
(Trích: Tiếng trúc tuyệt vời)
Chúng ta vừa đến với Cách sáng tac một bài thơ Mới. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn trong sáng tác. Chúc các bạn có những bài thơ mới đúng cách thức và đi vào lòng người.
HT
Rất thấu đáo,ý nghĩa và bổ ích !