CHỞ BAO NHIÊU ĐẠO THUYỀN KHÔNG KHẲM. ĐÂM MẤY THẰNG GIAN BÚT CHẲNG TÀ

Tác giả: HƯƠNG THU 

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đã minh chứng cho chúng ta một điều hết sức rõ ràng: ông là một sĩ phu yêu nước, một nhà giáo có phẩm hạnh, một chính nhân quân tử, một lương y vì đời.

Sinh ra và lớn lên ở đất Gia Định, trong một gia đình nhà Nho nghèo nhưng mực thước, được sự giáo dục tận tình của một trang từ mẫu – bà Trương Thị Thiệt – thân mẫu ông, là một người phụ nữ có đầy đủ những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam. Bà thường răn dạy con những điều lễ nghĩa, đạo đức và cách sống làm người, yêu ghét phân minh. Chính nhờ sự giáo dục của bà mẹ, nhà thơ lớn lên, đối diện với thực tế, nhìn thấy bao lương dân vô tội bị áp bức, bị chà đạp, ông đã căm giận biết bao, bọn tay sai cướp nước, bọn ô lại tham quan. Lòng yêu nước cứ thế lớn dần lên trong tâm hồn nhà thơ khi chính cuộc đời ông đã được gắn liền với những thăng trầm dâu bể của vận mệnh nước nhà. Do đó, muốn nói đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta phải ngược dòng lịch sử, lật lại từng trang sử vàng của đất nước, để hình dung được xã hội mà nhà thơ đã sống, đã trưởng thành và đã trải qua biết bao sự đắng cay, nghiệt ngã của số phận và vững mạnh đi lên như thế nào.

Năm 1832, Lê Văn Duyệt –  Tổng trấn thành Gia Định mất, cùng với sự ra đi của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, gia đình nhà thơ  yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã rơi vào một khúc quanh của định mệnh, trước số phận ngửa nghiêng của nước nhà.

Tổng trấn Lê Văn Duyệt và một số triều thần khác không tán thành việc vua Gia Long chọn hoàng tử Đảm lên nối ngôi. Từ đó, giữa vua tôi nhà Nguyễn bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Đến khi Lê Văn Duyệt xử trảm Huỳnh Công Lý – cha vợ của vua Minh Mạng, sự mâu thuẫn càng trở nên gay gắt. Bên trong, triều đình nhà Nguyễn rất căm giận, xem Lê Văn Duyệt như một cái gai trước mắt, song trước thế lực của viên Tổng trấn thành Gia Định lúc bấy giờ, triều đình nhà Nguyễn vẫn im lặng chờ thời cơ. Khi Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng phái Bạch Xuân Nguyên vào Nam hạch tội, và dùng xiềng sắt xích phần mộ Lê Văn Duyệt. Lê Văn Khôi, lúc bấy giờ là con nuôi, cũng là dũng tướng dưới cờ của Lê Văn Duyệt, đau lòng vì cái chết của cha nuôi, cộng với sự bất mãn đối với triều đình, Lê Văn Khôi đã làm một cuộc khởi nghĩa, nổi dậy, chống lại triều đình, thiêu sống Bạch Xuân Nguyên. Lòng dân lúc bấy giờ cũng đang căm ghét triều đình, bởi sự nhũng nhiễu của bọn tham quan, do vậy họ theo về dưới trướng, làm nghĩa binh của Lê Văn Khôi rất đông.

Vào thời gian này, thân phụ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, đang giữ chức thơ lại ở Văn hàn ty Tả quân dinh Lê Văn Duyệt. Trước uy thế của Lê Văn Khôi, ông bỏ chạy về triều, và bị triều đình Huế cách chức. Đứng trước tình thế đó, ông Nguyễn Đình Huy phải cải trang trở về Gia Định,  đem Nguyễn Đình Chiểu theo ra Huế, cho ở nhờ nhà một vị quan Thái phó, hàng ngày vừa lo việc phục dịch, hầu hạ, vừa chuyên tâm sách đèn.

Trong thời gian theo học ở Huế, tận mắt chứng kiến những cảnh trái tai, gai mắt “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, rồi cảnh “vàng thau lẫn lộn”, cảnh mua quan bán tước, đổi trắng thay đen nơi chốn quan trường… trong lòng chàng thanh niên Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ đã có sự yêu ghét phân minh, chính vì thế, sau này, khi viết tác phẩm “Ngư Tiều vấn đáp” ông cũng không quên dùng ngòi bút vẽ lên cảnh bon chen nơi chốn quan trường.

Thử coi trong cuộc nước non

Bốn chia, năm xé thon von chừng nào

Nhảy vòng phú quý lao xao

Sớm tôi, tối chúa ra vào gườm nhau

Muôn dân ép ráo mở dầu

Ngày trau khí giới, tháng xâu điện đài

Thêm bầy gian nịnh chen vai

Gây nên mọi rợ từ ngoài lấn trong

Đánh nhau thây bỏ đầy đồng

Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình

(Trích Ngư Tiều vấn đáp)

Ngán ngẩm trước cảnh “Sớm tôi, tối chúa ra vào gườm nhau”, và đau lòng trước cảnh “Đánh nhau thây bỏ đầy đồng/ Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình”, chàng trai Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ đã ý thức được rằng: Hơn bao giờ hết, Tổ quốc rất cần những nhà tri thức để giúp nước, giúp dân.

Sau thời gian theo học ở Huế, đến năm Canh Tý (1840), nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu trở về Gia Định, và đến năm Quý Mão  – khi ấy ông tròn 21 tuổi, Nguyễn Đình Chiểu đã đỗ Tú tài ở trường thi Hương Gia Định, tiếp theo lại đỗ Cử nhân.

Năm 1849, Nguyễn Đình Chiểu đang ở Huế chờ khoa thi, được tin mẹ mất, ông liền bỏ thi, về quê thọ tang mẹ. Dọc đường, vì quá khóc thương mẹ, ông bị đau mắt, rồi bị mù. Sau đó, ông đến ở trọ nhà thầy Lang Trung, thuộc dòng ngự y ở Quảng Nam để chữa bệnh, và cũng chính trong thời gian này ông đã học được nghề thuốc.

Đau khổ vì chí tang bồng chưa thỏa nguyện, vì ước mơ đem tài trai ra giúp nước chưa hoàn thành, vì người mẹ mà ông hết lòng tôn kính ra đi vĩnh viễn , vì đường tương lai trước mặt dường như bị khép lại cùng với bóng tối vây quanh ông, nhưng, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã không vì thế mà bi quan, yếm thế, bỏ trôi cuộc đời và ước mơ cháy bỏng trong lòng:  đem tài ra giúp nước, giúp dân., trái lại, nhà thơ đã bằng ý chí, và tâm đạo của mình, vượt lên khỏi số phận khắc nghiệt để lập đức, hành đạo, đem hết sở học của mình để làm việc có ích cho đời. Sau khi mãn tang mẹ, ông mở trường dạy học ở Bình Vi (Gia Định) và tiếp tục nghiên cứu về y học. Cũng thời gian này, ông bắt đầu làm thơ, viết văn để bày tỏ chính kiến của mình trước cuộc sống của xã hội. Học trò khắp nơi nghe tiếng tìm về học rất đông.

Lúc đầu ông lấy hiệu là Mạch Trạch Phủ hay Trọng Phủ, sau khi bị mù, ông lấy thêm biệt hiệu là Hối Trai (cái nhà tối). Bị bội ước về chuyện hôn nhân, ông ở vậy, chuyên tâm dạy học, giúp đời. Học trò của ông tên Lê Tăng Quýnh, người Cần Giuộc, cảm thương thầy đã ngoài 30 vẫn chưa có người nâng khăn sửa túi, bèn xin cha mẹ gả cô em gái thứ năm xinh đẹp của mình tên là Lê Thị Điền cho Thầy dạy học.

Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành tác phẩm “Lục Vân Tiên”, gởi gắm vào đó nỗi lòng của mình, những gian truân cuộc đời ông đã gánh chịu.

Năm 1858, thủy quân Pháp và Tây Ban Nha gồm 14 chiến thuyền, và 2.300 quân do dô đốc  Rigault de Genouilly chỉ huy bắn phá vào Sơn Trà (Đà Nẵng). Đó là những phát súng đầu tiên, Pháp chính thức đánh chiếm nước ta. Chúng đổ bộ và đánh chiếm cửa Hàn (Đà Nẵng), một cửa ngõ của kinh đô Huế. Cũng khởi sự từ đó, những cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu nổ ra khắp nơi. Đây là thời gian Nguyễn Đình Chiểu đã dùng ngòi bút của mình để vẽ ra một cách trung thực nhất những đau thương, mất mát của cảnh nước mất, nhà tan.

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ bầy chim dáo dác bay

Bến Nghé của tiền tan bọt nước

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây

Ông đã thảng thốt kêu lên:

Hỡi trang dẹp loạn rày đâu tá,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?”

Tiếng kêu thống thiết đó, cũng chính là tiếng đau thương của lòng ông khi năm 1895, thành Gia Định, nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã bị đánh chiếm. Ông đành phải gạt nước mắt làm một cuộc ly hương, về trú ngụ ở làng Thanh Ba, quận Cần Giuộc, nơi quê hương người vợ tấm mặn của ông. Nhưng rồi, Cần Giuộc cũng không thoát khỏi sự giày xéo dưới gót giày xâm lược của quân Pháp. Tân An, Gò Công cũng lần lượt bị Pháp đánh chiếm. Đỗ Trình Thoại, người bạn đỗ cử nhân cùng khóa với ông hồi trước và nhiều nghĩa quân của ta đã phải hy sinh. Nỗi đau thương cồn lên như sóng Tiền Giang bao nhiêu, thì nỗi căm hận càng sôi trào trong lòng nhà thơ yêu nước bấy nhiêu. Nước mắt nhà thơ đã hòa cùng dòng mực, pha trộn với dòng máu căm phẫn đang đốt cháy tâm can để viết nên bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” – một bản anh hùng ca bất hủ, ca ngợi tinh thần anh dũng hy sinh của những người con Cần Giuộc kiên cường. Tay cày, tay cuốc, chưa từng xông pha trận mạc, cũng đã quyết đạp bằng sóng gió, đối mặt với quân thù:

Khá thương thay, nào phải thiệt quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễn binh.

Chẳng qua là dân ấp, dân lân, chịu tiếng làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, chẳng đợi tập rèn, mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố.

Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, đầu ngòi

Trong tay một ngọn tầm vông, nào đợi sắm dao tu, nón gõ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong chỗ dạy, đạo kia

Gươm đeo dùng một lưỡi dao phay, cũng chém đặng thằng quan hai nọ

Từng chữ, từng lời trong bài văn tế là từng dòng nước mắt đau thương tột cùng của nhà thơ khóc đồng bào, đồng chí của mình, từng câu, từng đoạn là từng nỗi căm hờn như muốn trào dâng lên đầu ngọn bút để tố cáo với lịch sử, với nhân loại  sự tàn bạo của bọn đế quốc xâm lăng.

Cũng trong thời gian ở Cần Giuộc, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành tập “Dương Từ Hà Mậu”.

Vận mệnh nước nhà đang ngày một trở nên đen tối, triều đình Huế nhu nhược liên tục nhượng bộ quân Pháp. Năm 1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp thay mặt triều đình Huế ký hòa ước giao nộp ba tỉnh miền Đông Nam Bộ: Gia Định, Biên Hòa và Định Tường cho quân Pháp. Trong khi đó nghĩa quân của Trương Định vẫn duy trì cuộc kháng chiến ở vùng Gia Định, Gò Công dưới ngọn cờ: “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (Họ Phan, họ Lâm bán nước, triều đình bỏ dân). Mặc dù đôi mắt bị mù, nhưng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu vẫn thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của mình, ông thường thư từ liên lạc với Trương Định và Đốc Binh Là, luôn ủng hộ nghĩa quân.

Năm 1863, Nguyễn Đình Huân, em trai ông tử trận tại Cần Giuộc, trong hàng ngũ nghĩa quân của Đốc Binh Là. Không cam tâm sống chung với bọn đế quốc trong vùng giặc tạm chiếm, một lần nữa, nhà thơ yêu nước đành gạt nước mắt ra đi. Nỗi đau đớn của lòng ông khi từ biệt vùng đất thân yêu đầy đau khổ trước nạn xâm lăng là một nỗi xót xa không gì so sánh được:

“Vì câu danh nghĩa phải đi ra

Quay mũi thuyền nan dạ xót xa”

Từ giã Cần Giuộc, ông xuôi thuyền về Ba Tri (Bến Tre). Ở đây ông đã cùng Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt làm thơ xướng họa cùng nhau.  Không trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu ở chiến trường gươm giáo, họ cùng nhau tham gia trên mặt trận văn hóa, dùng ngòi bút của mình để kêu gọi lòng yêu nước của muôn dân, để vạch mặt bọn tay sai, phản quốc như Tôn Thọ Tường chẳng hạn.

Khoảng thời gian sống ở Ba Tri, đối với nhà thơ, vui có, buồn có, đau thương cũng có. Vui vì được cùng bạn bè, đồng chí chiến đấu trên mặt trận văn hóa, buồn vì từng bạn bè thân yêu, từng nghĩa quân ta lần lượt hy sinh, đau thương vì những cuộc kháng chiến của nghĩa quân ta lần lượt bị thất bại, đất nước đã đen tối, càng đen tối hơn.

Năm 1864, Trương Định cùng 30 chiến sĩ tâm phúc đã tử thương trong một trận đánh, vì bị tên phản tướng Huỳnh Tấn phục kích. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiều đau đớn trước sự ra đi của người bạn thân, đã viết 12 bài thơ liên hoàn khóc điếu Trương Định

“Trong Nam tên họ nổi như cồn

Mấy trận Gò Công để tiếng đồn

Dấu đạn hãy chìm tàu bạch quỷ

Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn

Ngọn cờ phấn nghĩa trời chưa bẻ

Cái ấn Bình Tây đất vội chon

Nỡ khiến anh hùng rơi hột lụy

Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn”

(Trích đoạn đầu)

Sau khi ký hòa ước giao nộp ba tỉnh miền Đông, đến năm 1867, ba tỉnh miền Tây Nam Bộ lại mất tiếp vào tay giặc. Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Nghe tin, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm hai bài thơ điếu, hàm ý trách móc, cũng như đáng tiếc cho một người đã vì hai chữ công hầu, và Trung quân một cách mê muội, suốt ba triều công cán rốt cuộc đã để lại đời cái án “Tội nhân thiên cổ”.

Non nước tan tành hệ bởi đâu?

Dàu dàu mây trắng cõi ngao châu

Ba triều công cán vài hàng sớ

Sáu tỉnh cang thường một gánh thâu

Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng

Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu

Minh tinh chín chữ lòng son tạc

Trời đất từ đây mặc gió thu”

(Trích đoạn một trong bài thơ điếu Phan Thanh Giản)

Hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn này hết sức bi quan, những cuộc khởi nghĩa lớn của nghĩa quân ta lần lượt bị thất bại, hết Trương Định, rồi đến Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương vv… vận nước hết sức ngửa nghiêng. “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”,  đã được ra đời trong một hoàn cảnh như thế, khi  bộ máy cai trị của Thực dân Pháp được thiết lập khắp nơi. Biết bao sĩ phu yêu nước, dù ngọn lửa căm hờn đang sôi sục, nhưng vì chưa có “thiên thời, địa lợi”, đành “im hơi, lặng tiếng” lui về  làm ngư, làm tiều chờ đợi thời cơ. Hai nhân vật được nhà thơ xây dựng trong “Ngư tiều y thuật vấn đáp”, Mộng Thê Triều và Bào Tử Phược chính là nét chấm phá chân dung của những sĩ phu thời bấy giờ. Nguyễn Đình Chiểu quan niệm: thà như người thầy trong truyện, tự làm mù đôi mắt của mình, còn hơn là những người sáng mắt, nhưng lòng tối đen.

Thà cho trước mắt mù mù

Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân

Thà cho trước mắt vô nhân

Chẳng thà ngồi ngó sinh dân nghiêng nghèo”.

“Ngư Tiều y thuật vấn đáp” là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm này đã được nhân dân các tỉnh miền Nam đón nhận với một cảm tình nồng hậu, nhất là nhân dân hai tỉnh Bến Tre và Mỹ Tho đã lưu truyền khắp nơi sau khi nhà thơ ra đi vĩnh viễn vào ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, nhằm ngày 3 tháng 7 năm 1888 với biết bao sự thương tiếc của đồng bào, đồng chí, học trò, và những người thân thuộc quanh ông.

Nói đến nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, là nói đến một tấm gương yêu nước nồng nàn. Ông Phạm Văn Đồng, nhân kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu vào tháng 7 năm1963, đã viết trong Tạp chí Văn học :“Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước, mà tác phẩm là những trang bất hủ, ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu, lúc chúng đặt chân lên đất nước chúng ta.”. Không chỉ người Việt ca ngợi lòng yêu ước của ông, ngay cả người phương Tây cũng đã dành cho ông một sự tôn kính đặc biệt. Vị Thống đốc Nam kỳ Hoeffel trong lễ viếng mộ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tại Ba Tri ngày 27 tháng 6 năm 1943 đã đọc diễn văn ca ngợi thân thế và thơ văn của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cùng tấm lòng yêu nước sâu sắc của ông.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã gắn liền với sự thăng trầm của đất nước như một ca bi tráng. Đầy hào khí nhưng cũng đầy nước mắt. mỗi dòng thơ của tiên sinh để lại đời sau, là mỗi lời nhắn nhủ: hãy sống vì quê hương, đồng bào, dân tộc, không ngại hy sinh và gian khổ, bởi:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”

Và đó, theo tôi chính là câu danh ngôn bất hủ nhất, con người dù sống ở bất kỳ thời đại nào, quốc gia nào trên trái đất cũng nên ghi nhớ. HT

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *