Tác giả: LÃ TÁM

Đôi mươi, cha gửi chiến trường
Hành quân gian khổ, xuyên rừng vào B
Khói bom lửa đạn lập loè
Mồ hôi trộn máu, lời thề không phai.
Cả đời, thương tích đè vai
Thêm con, cha gánh bể trời lo toan
Nụ cười phảng phất da cam
Đêm đêm thức giấc ngỡ đang công đồn.
Hoà bình, cha vẫn giản đơn
Chiến tranh lùi lại, thiệt hơn chẳng màng.
Bao năm, giặc đã đầu hàng
Máu xương đổ xuống, Sao vàng bay lên.
Bài thơ ” ĐÔI MƯƠI CỦA CHA” là một tác Lã Tám phẩm hay và rất ý nghĩa được tác giả khắc họa sâu sắc về người cha của mình, nói lên sự hy sinh của người cha nói riêng và sự hy sinh của những người đã chải qua cuộc chiến nói chung, nhiều người đã nằm lại chiến trường, cha của tác giả đã may mắn trở về nhưng nhưng ký ức của cuộc chiến luôn luôn còn ám ảnh trong ông, bài thơ chia làm 3 khổ, mỗi khổ thơ là một giai đoạn khác nhau của cuộc đời người lính, từ tuổi trẻ chiến đấu đến khi trở về với cuộc sống đời thường.
Khổ 1: Tuổi trẻ và những gian khổ nơi chiến trường
Đôi mươi, cha gửi chiến trường
Hành quân gian khổ, xuyên rừng vào B
Khói bom lửa đạn lập loè
Mồ hôi trộn máu, lời thề không phai.
Những câu thơ khổ thơ đầu đã gợi lên một hình ảnh rất đỗi quen thuộc nhưng cũng đầy bi tráng: tuổi hai mươi, tuổi đẹp nhất của đời người, lại phải gác lại để “gửi” mình vào chốn chiến trường. Cụm từ “gửi chiến trường” nghe thật nhẹ nhàng, nhưng lại chất chứa sự hy sinh lớn lao.
Những câu thơ tiếp theo miêu tả trực diện sự gian khổ: “Hành quân gian khổ, xuyên rừng vào B, là mật danh của chiến trường miền Nam lúc ấy, cho thấy sự khó khăn, hiểm nguy mà người lính phải đối mặt. Hình ảnh “khói bom lửa đạn lập loè” và “mồ hôi trộn máu” là những chi tiết rất thực tế, gợi lên sự ác liệt của chiến tranh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả, “lời thề không phai” đã khẳng định ý chí kiên cường, lòng yêu nước bất diệt của người lính.
Khổ 2: Nỗi lo toan của người lính khi trở về và gánh nặng mưu sinh
Cả đời, thương tích đè vai
Thêm con, cha gánh bể trời lo toan
Nụ cười phảng phất da cam
Đêm đêm thức giấc ngỡ đang công đồn.
Sau khi chiến tranh kết thúc, người lính không có được cuộc sống bình yên trọn vẹn. Khổ thơ này đã đi sâu vào những gánh nặng, nỗi đau thầm kín của họ. “Thương tích đè vai” là những vết sẹo thể chất và tinh thần từ chiến tranh. Khi có con, gánh nặng đó càng thêm nặng nề: “thêm con, cha gánh bể trời lo toan”. Đây là nỗi lo cơm áo gạo tiền, là trách nhiệm làm cha.
Đặc biệt, hình ảnh “nụ cười phảng phất da cam” đã đề cập đến một hậu quả đau lòng của chiến tranh: di chứng chất độc màu da cam, ảnh hưởng đến thế hệ sau. Nỗi đau ấy không chỉ của riêng người lính mà còn của cả gia đình họ. Câu cuối “đêm đêm thức giấc ngỡ đang công đồn” cho thấy ám ảnh chiến tranh vẫn còn đeo bám, sự bình yên chỉ là tạm thời, giấc ngủ cũng không được trọn vẹn.
Khổ 3: Sự hy sinh và lời khẳng định ý nghĩa
Hoà bình, cha vẫn giản đơn
Chiến tranh lùi lại, thiệt hơn chẳng màng
Bao năm, giặc đã đầu hàng
Máu xương đổ xuống, Sao vàng bay lên.
Khổ thơ cuối cùng là lời tổng kết và khẳng định ý nghĩa của sự hy sinh. Khi hòa bình trở lại, người lính trở về với cuộc sống giản dị, không đòi hỏi, không so đo “thiệt hơn chẳng màng”. Điều này thể hiện sự khiêm nhường và cao cả.
Câu thơ “Bao năm, giặc đã đầu hàng” là một lời khẳng định đầy tự hào về chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Và cuối cùng, câu thơ “Máu xương đổ xuống, Sao vàng bay lên” đã đúc kết lại toàn bộ ý nghĩa của cuộc chiến: sự hy sinh của bao người thầm lặng, “máu xương” đã đổi lấy lá cờ “Sao vàng” tung bay, biểu tượng cho độc lập, tự do và niềm tự hào dân tộc, của sự tự hòa và kiêu hãnh của những người lính nói chung và người cha của tác giả.
Cảm ơn những lời bình luận như động viên, tiếp thêm động lực cho nguồn thơ thêm chảy tiếp.
Quả đúng là cả đời cha là quãng đời mãi mãi ở lứa tuổi 18 đôi mươi, vẫn mãi chất của Bộ đội Cụ Hồ, giản dị đầy trách nhiệm. Mặc dù di chứng chiến tranh đầy khốc liệt, nó hằn sâu vào đời , tưởng rằng lúc vui có thể che lấp nỗi buồn đau nhưng không, nó vẫn phảng phất, đau đáu hằn hiện ra, đi cả vào trong giấc ngủ không tròn…
Vâng, cha tôi là người lính Trường Sơn đã từng chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị, chiến trường B khốc liệt năm nào, may mắn trở về, không chế độ thương binh, da cam nhưng ông vẫn bình dị đời thường, bởi trở về đã là may mắn.
Bài này không chỉ nói về cha tôi mà tri ân đến cả thế hệ cha tôi đã chiến đấu, đã kiên cường anh dũng để có hòa bình cho Tổ quốc Việt Nam đang phất cao ngọn cờ uy tín trên trường quốc tế. Một lần nữa cảm ơn lời bình. Rất vui được giao lưu học hỏi thêm. Trân trọng!