Tác giả: Hương Thu
Tên khai sinh của ông là Lâm Tấn Phát, tự là Trác Chi, ông ra đời giữa mùa xuân năm Bính Ngọ, nhằm ngày 10 tháng 3 năm 1906 tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, cậu bé Lâm Tấn Phát sống với người bác ruột – đó là một nhà Nho nổi tiếng văn hay, chữ tốt, sống đời chuẩn mực, đạo đức. Có lẽ được thừa hưởng từ gia đình, cậu bé Lâm Tấn Phát đã sớm có tình yêu dành cho văn chương, và sau này đã trở thành một nhà thơ Đông Hồ nổi tiếng được nhiều người yêu mến.
Đông Hồ Ấn Nguyệt – một thắng cảnh nổi tiếng của vùng đất Hà Tiên là nơi gia đình ông cư ngụ trải mấy đời qua, có lẽ đó là lý do ông lấy bút hiệu Đông Hồ khi đến với văn chương. Sau này, ngoài bút hiệu Đông Hồ, ông còn ký tên với nhiều bút danh khác như: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am…
Là một nhà giáo, nhà thơ, Đông Hồ viết nhiều thể loại, nổi tiếng với những bài về khảo cứu, tùy bút, ký sự … đăng trên báo Nam Phong, như: Thăm đảo Phú Quốc, Linh Phượng ký, Phú Đông Hồ, Hà Tiên Mạc thị sử…đây là những tác phẩm có giá trị về văn học, lịch sử của vùng đất Hà Tiên – nơi chôn nhau cắt rốn của ông.
Ngoài Nam Phong tạp chí, ông còn cộng tác với nhiều tờ báo khác khắp miền từ Nam chí Bắc như: Đông Pháp thời báo, Phụ nữ Tân Văn, Việt Dân, Tự Do, Mai, Văn Học tạp chí, Khai Trí Tiến Đức tập san, Tri Tân …
Mặc dù ông xuất hiện trên báo với nhiều thể loại, song hầu như mọi người đều biết đến ông với tên tuổi của một nhà thơ. Năm 1932, khi phong trào thơ mới đang rầm rộ nổi lên, ông vẫn cho ra đời tập Thơ Đông Hồ, với nhiều thể loại cũ như: ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, thập vịnh, hát nói, câu đối, phú, tản văn vv…
Thơ mới với phong cách mới đã nhanh chóng thu hút nhà thơ Đông Hồ, và năm 1935 ông tiếp tục cho ra mắt tập Cô gái xuân góp mặt với dòng thơ lãng mạn trong cả nước. Mặc dù vậy, phong thái Nho gia vẫn không mất đi nơi nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ.
Bên cạnh thơ ca, điều mà Đông Hồ luôn ấp ủ, nung nấu trong lòng từ thuở còn niên thiếu ở tuổi mười lăm, đó là: làm sao đưa tiếng Việt lên ngôi, phát triển đến với cộng đồng. Tình yêu to lớn Đông Hồ dành cho tiếng Việt, luôn đeo đuổi theo ông trong suốt cuộc đời đến khi ông nhắm mắt.
Là giáo viên dưới chế độ cai trị của đế quốc Pháp, Đông Hồ rất bất mãn khi người Việt lại không được học tiếng Việt, thêm vào đó, mỗi ngày đều phải tụng câu kinh nhật tụng: “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois”. Ngoài chương trình bắt buộc của nhà nước cai trị, Đông Hồ vẫn chú trọng đến tiếng Việt, và luôn khuyến khích học sinh trau dồi tiếng Việt.
Để thực hiện ước mơ của mình, năm 1926, khi mới tròn 20 tuổi, nhà thơ Đông Hồ đã cho mở học xá Trí Đức bên bờ Đông Hồ, để chuyên dạy chữ quốc ngữ. Đó là khoảng thời gian tiếng Việt dường như bị lãng quên trong các học đường, thanh niên, học sinh trao đổi, chuyện trò với nhau, nếu không nói toàn tiếng Pháp, thì cũng chêm một đôi câu tiếng Pháp vào câu chuyện của mình để tỏ ra “đẳng cấp”. Trong khi đó, chàng thanh niên Lâm Tấn Phát, vẫn luôn mang khát vọng trong lòng: đem tiếng Việt đến với mọi người. Nhiều bài văn của học sinh Trí Đức học xá, được ông gởi đăng báo Nam Phong, trong đó có người học trò xuất sắc nhất của ông: Mộng Tuyết Thất tiểu muội, sau này đã trở thành người bạn đời cùng chia sẻ đắng cay, gian khổ cùng nhau. Với sự nổ lực của người thầy mẫu mực, rất đỗi tận tâm – Lâm Tấn Phát (tức nhà thơ Đông Hồ), học sinh đến với Trí Đức học xá ngày càng đông.
Không dừng lại ở đó, nhà thơ Đông Hồ muốn đưa tiếng Việt đến khắp mọi miền đất nước, không chỉ riêng ở đất Hà Tiên. Vậy là sau bao đêm thao thức, những lớp hàm thụ chính thức được ra đời ở Trí Đức học xá. Từ những lớp học hàm thụ này, học sinh ở khắp mọi miền tổ quốc đều được trau dồi tiếng Việt.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, cuối cùng Pháp bắt đầu dòm ngó đến hoạt động của Trí Đức học xá, và để tránh “hậu họa” có thể xảy ra, năm 1934, Trí Đức học xá bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa sau tám năm hoạt động. Tuy nhiên, các lớp hàm thụ vẫn được nhà thơ giàu tâm huyết với tiếng mẹ đẻ tiếp tục duy trì.
Sau khi Trí Đức học xá bị đóng cửa, Đông Hồ lên Sài Gòn làm báo Sống. Một tờ báo đầu tiên ở Nam Bộ in đúng chính tả, nhất là các dấu hỏi, ngã. Mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn, song tình yêu tiếng Việt trong tâm hồn nhà giáo Đông Hồ chưa bao giờ bị dập tắt. Với tờ báo Sống, ông tiếp tục nhận và cho đăng các bài văn hay của Trí Đức học xá ở mục: Trong vườn Trí Đức, nhằm tiếp tục phát triển tiếng Việt với các bài bình văn của Trí Đức học xá.
Cộng tác với báo có các nhà văn yêu nước, tiến bộ: như nhà thơ Tản Đà, nhà phê bình Thiếu Sơn, nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ …
Sau 30 số báo, cuối cùng tờ báo cũng phải đóng cửa, Đông Hồ buồn bã, khăn gói về lại Hà Tiên, sống ẩn dật gần 10 năm trời. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cũng tham gia kháng chiến chống Pháp, thời gian sau bị bệnh, vì lý do sức khỏe, ông lại trở lên Sài Gòn sinh sống, ra mắt tờ Nhân Loại, và mở Yễm Yễm thư trang – cơ sở xuất bản của ông ở đường Nguyễn Thái Học, là cơ sở của văn phòng Ban Tuyên huấn Xứ Ủy Nam Bộ sau hiệp định Genève.
Tình yêu tiếng Việt vẫn không lúc nào nguôi trong lòng nhà văn hóa, nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ. Với bút hiệu Đồ Mọt Sách, ông đã đưa ra nhiều nhận xét khá thú vị về tiếng Việt trong mục Chữ và Nghĩa trên báo Nhân loại. Cũng với tình yêu tiếng Việt luôn canh cánh bên lòng, nhà thơ Đông Hồ đã nhận lời giảng dạy phần Văn học miền Nam cho Đại học văn Khoa Sài Gòn, mặc dù lúc này ông tuổi cũng đã cao, quá khỏi lục tuần.
Sinh viên Đại học văn Khoa thời ấy, không ai là không yêu thích các tiết giảng của thầy Đông Hồ. Với dáng vẻ nghiêm túc của một nhà văn hóa, nhà giáo, cộng với một tâm hồn lãng mạn, đầy chất thơ của một nhà thơ mẫu mực, nhà thơ Đông Hồ đã xóa đi khoảng cách giữa thầy và trò, để những tiết giảng của thầy trở nên ấm áp hơn bao giờ.
Một ngày, đã trở thành một dấu ấn không dễ gì quên giữa tâm hồn những sinh viên Văn khoa thời ấy, đó là ngày 25 tháng 3 năm 1969, trên giảng đường ở lầu 2, nhà thơ Đông Hồ đã bất ngờ ngã xuống trong vòng tay của những người học trò rất mực yêu mến thầy, khi ông đang ngâm bài thơ Trưng nữ vương của nhà thơ Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn của vị nữ tướng, sau khi chiến thắng trở về, vắng bóng người chồng thân yêu bên cạnh.
Đông Hồ ra đi vĩnh viễn, nhưng những gì ông đã để lại cho đời đó là sự phát triển tiếng Việt, và những tác phẩm để đời của ông.
THƠ ĐÔNG HỒ
CÔ GÁI XUÂN
Trong xóm làng trên, cô gái thơ,
Tuổi xuân mơn mởn vẻ đào tơ
Gió đông mơn trớn bông hoa nở,
Lòng gái xuân kia vẫn hững hờ.
Lững thững lên trường buổi sớm chiều,
Tập tành nghiên bút, học may thêu
Quần đen, áo trắng, khăn hồng nhẹ,
Ngọn xoã ngang vai, tóc bỏ đều
Lá rợp cành xoài bóng ngả ngang,
Cô em dừng bước nghỉ bên đường,
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán,
Gió mát lòng cô cũng nhẹ nhàng.
Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
Lòng cô phất phới biết bao tình.
Vội vàng để vở bên bờ cỏ,
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
Áo trắng khăn hồng gió phất phơ,
Nhẹ nhàng vui vẻ nét ngây thợ
Trông cô hớn hở như đàn bướm,
Thong thả trời xuân mặc nhởn nhơ.
Đàn bướm bay cao, cô trở về,
Sửa khăn, cắp sách lại ra đi,
Thản nhiên, cô chẳng lòng thương tiếc,
Vì bướm ngày xuân chẳng thiếu chi!
Cũng xóm làng trên cô gái thơ,
Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ.
Gió đông mơn trớn bông hoa nở,
Lòng gái xuân kia náo nức chờ.
Tưng bừng hoa nở, bóng ngày xuân,
Rực rỡ lòng cô, hoa ái ân.
Như đợi, như chờ, như nhớ tưởng,
Đợi, chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân.
Tình quân cô; ấy sự thương yêu,
Đằm thắm, xinh tươi, lắm mỹ miều
Khao khát, đợi chờ, cô chửa gặp,
Lòng cô cảm thấy cảnh đìu hiu.
Một hôm, chợt thấy bóng tình quân,
Gió lộng mây đưa thoáng đến gần.
Dang cánh tay tình, cô đón bắt,
Vô tình mây gió cuốn xa dần.
Gót ngọc phăng phăng cô đuổi theo:
“Tình quân anh hỡi! Hỡi người yêu!
“Gió mây xin để tình quân lại;
“Chậm chậm cho em nói ít điều…”
Than ôi! Mây gió vẫn vô tình,
Cuồn cuộn bay trên ngọn núi xanh.
Nhìn ngọn núi xanh, mây khói toả,
Mắt cô, đôi giọt lệ long lanh.
Lá rợp cành xoài bóng ngả ngang,
Cô em dừng bước nghỉ bên dường.
Cởi khăn phẩy gió mồ hôi trán,
Gió mát, lòng cô những cảm thương.
Lủi thủi bên đường, cô ngẩn ngơ
Chốn này, đuổi bắt bướm ngày xưa,
Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm,
Cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ:
“Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,”
“Lòng cô phất phới biết bao tình”.
“Vội vàng để vở bên bờ cỏ,”
“Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh…”
“Đàn bướm bay cao, cô trở về,”
“Sửa khăn cắp sách lại ra đi”
“Thản nhiên, cô chẳng lòng thương tiếc,”
“Vì bướm ngày xuân chẳng thiếu chi!….”
Ái tình nào phải bướm ngày xuân,
Tình ái ngày xuân chỉ một lần.
Một thoáng bay qua không trở lại,
Gái xuân rỏ lệ khóc tình quân!