Tản văn
Tác giả: HỒNG MINH NHÂN
Cha tôi say mê đồ gốm, ông có một thói quen là mỗi khi uống trà, ông thường dùng tay ôm lấy bình gốm cũ, xoa vuốt từng thớ đất nung đã úa màu thời gian, ngắm nghía như thể đang trò chuyện trong im lặng với một người bạn tri kỷ từ kiếp nào. Mỗi mảnh gốm đối với cha dường như không chỉ là một vật dụng, mà là một linh hồn, một lát cắt của đất, một nhịp thở lặng lẽ của quê hương.
Tôi không hiểu được điều đó khi còn bé, nhà nhỏ giữa thành phố, những chiếc bình nâu đỏ cũ kỹ nằm im lìm trong góc phòng với tôi chỉ là những vật vô tri choán chỗ. Mãi đến khi cha không còn nữa, khi đi qua bao nhiêu đau thương của đời sống, tôi mới dần dần nhận ra vẻ đẹp trầm lặng của gốm.
Và dòng chảy cuộc đời đưa tôi có dịp đến Phú Yên, nơi có làng gốm Quảng Đức nổi tiếng của vùng đất đón tia nắng bình minh đầu tiên của Việt Nam. Quảng Đức nằm nép mình dưới chân núi A Man, bên dòng sông Cái hiền hòa trôi xuôi ra đầm Ô Loan mênh mang, nơi con người sống cùng đất, gắn bó với đất như cách cha tôi từng si mê những mảnh gốm thô nhám, sần sùi nhưng ấm nồng hồn cốt quê hương.
Nằm trong vùng đất An Thạch – nối liền với lịch sử Phú Yên ngót nghìn năm. Làng gốm Quảng Đức có từ khoảng thế kỷ XVII, do những cư dân Việt đầu tiên từ phía Bắc vào Nam mang theo nghề gốm cổ truyền. Làng gốm Quảng Đức đã từng là một thương cảng gốm – nơi thuyền bè qua lại đưa sản phẩm đến các vùng đất xa. Thời gian đó, làng gốm mới manh nha hình thành, và phát triển mạnh mẽ hơn trong thế kỷ XVIII – XIX, khi kinh tế nước nhà còn phụ thuộc nhiều vào sông nước và thủ công nghệ truyền thống. Nghề làm gốm cứ nhẫn nại duy trì, ông – cha – con, người Quảng Đức cứ thế truyền nhau tay nghề nhào đất, se gốm, nung lò, bằng sự kiên nhẫn và đôi tay lấm lem.
Cổ bồng gốm Quảng Đức dùng để thờ cúng, niên đại thế kỷ XIX
Có thời kỳ hưng thịnh, gốm Quảng Đức theo ghe xuôi Nam ngược Bắc, hiện diện khắp các chợ quê, thôn xóm. Lại cũng có thời lụi tàn, khi những nồi niêu nhôm inox du nhập, khi cuộc sống hiện đại khiến người ta quên dần những dáng bình thô mộc. Nhưng lò gốm thì chưa bao giờ tắt hẳn. Gốm Quảng Đức không phải là một biểu tượng hào nhoáng trên sân khấu văn hóa, mà là một nhịp thở sâu, bền bỉ trong lòng đất mẹ – nơi lưu giữ bản sắc, nơi chắt chiu từng giọt thời gian. Gốm không chỉ là một món đồ, đó là một phần của hồn Việt – nơi bàn tay cần lao kết hợp cùng thiên nhiên để làm nên cái đẹp, là ký ức, là niềm tin, là cách mà con người nương tựa vào đất để sống, để yêu, để nhớ nhau.
Gốm không chỉ để dùng. Gốm còn để lặng ngắm, để nghe tiếng đất thì thầm về thời gian. Mỗi vết rạn, mỗi mảng men loang… đều là ký ức. Người nghệ nhân sống cùng gốm. Họ cho đất một đời sống mới, họ lặng lẽ ngắm từng chiếc gốm như ngắm lại chính mình qua lớp đất nung trầm mặc. Có lẽ vì thế, mà Quảng Đức không chỉ là một làng nghề, mà là mạch sống của cả một vùng văn hóa lâu đời – nơi bàn tay nghệ nhân nâng niu từng mảnh gốm, ấp ủ một phần hồn đất nước.
Đồ dùng đựng nước niên đại thế kỷ XIX
Kỹ thuật làm đồ gốm giống như một nghi lễ thầm lặng. Làm gốm là hành trình của đất hoang tạo hình, là cuộc hóa thân đầy triết lý của thiên nhiên thành văn hóa. Gốm không phải chỉ được “nặn ra”, mà được gọi dậy, được “đánh thức” bởi bàn tay người thợ.
Người thợ chọn đất – giao cảm đầu tiên. Họ không dùng bất kỳ loại đất nào, mà phải là đất sét mịn, dẻo, có hồn. Chạm vào đất là chạm vào khí phách của núi, sự trầm tĩnh của sông, và nhịp thở của bao đời xứ biển.
Nhào đất là sự kết nối với linh hồn. Kỹ thuật nhào đất tưởng chừng chỉ là thao tác tay, nhưng thực ra là một hình thức thiền định động. Người thợ cảm nhận đất bằng da, gân và hơi thở. Một cục đất nhào chưa tới là đất còn buồn bã, chưa chịu “nói chuyện”. Đất tốt là đất biết nghe lời, mềm theo tay mà không hư hình.
Chậu kiểng trồng hoa niên đại thế kỷ XIX
Nặn hình đất là cuộc đối thoại thầm lặng. Khi nắn bình, nặn chum, nặn chén… người thợ như đang trò chuyện với đất. Mỗi đường uốn lượn không hề ngẫu nhiên – đó là đường cong của đời sống, đường nét của thời gian lắng đọng. Nét thô mộc chính là vẻ đẹp của sự chấp nhận và thành thật – không tô son, không che giấu.
Phơi đất là gửi thân cho nắng. Gốm được tạo hình xong cần được phơi kỹ. Mặt trời chính là bếp lửa đầu tiên, là phép thử đầu tiên. Gốm phơi chưa đủ nắng sẽ nứt. Như con người cần trải nắng, gốm cũng cần sự rắn rỏi trải qua thử thách từ sự thu nhận năng lượng của bầu trời rực rỡ.
Nung đất qua ngọn lửa thiêng. Lò gốm không chỉ là nơi nấu chín hồn đất. Nó là thánh đường, nơi lửa thổi linh hồn vào đất. Nhiệt độ nung có thể tới cả 1000 độ C, đó là thử thách cuối cùng để một vạt đất vô tri hóa thành tinh túy.
Gốm thành phẩm chính là một kiếp đất mới. Khi mở cửa lò, đất không còn là đất nữa, mà là sự kết tinh, mỗi chiếc bình, chiếc chén… đều mang dáng dấp người thợ, thời đại và miền đất sinh ra nó.
Gốm Quảng Đức là một dòng gốm quý – với ba loại đất nung thường, gốm tráng sò huyết, gốm tráng men khác, thể hiện ba giai đoạn rõ rệt phát triển từ thô mộc đến tinh xảo trong lịch sử làng nghề. Ngay cả khi lan truyền rộng khắp Việt Nam, nhiều mẫu hiện vật Quảng Đức từng được tìm thấy ở Tây Nguyên và Nam Bộ lại càng chứng tỏ tầm ảnh hưởng sâu rộng của dòng gốm này trong lịch sử giao thương khu vực.
Gốm Quảng Đức không lộng lẫy như gốm Biên Hòa – nơi ảnh hưởng sâu sắc từ mỹ thuật Pháp với các họa tiết trang trí cầu kỳ, men xanh lam, men ngọc lấp lánh. Cũng không quý tộc như gốm Bát Tràng với sứ trắng, men rạn, hoa văn tráng lệ, vốn rất được tầng lớp thượng lưu thời xưa ưa chuộng. Gốm Quảng Đức trầm tĩnh như đất quê, không phô trương, lặng lẽ hiện diện trong đời sống của những con người bình dị: một chiếc om nấu thuốc bắc, một hũ đựng mắm, một cái chum hứng nước trời ban…
So với gốm Chăm – dòng gốm cổ hàng nghìn năm tuổi của cư dân Champa từng sinh sống dọc dãy
Trường Sơn và duyên hải miền Trung – thì gốm Quảng Đức như người em gái sinh sau đẻ muộn. Gốm Chăm thiên về điêu khắc hình thể, sử dụng kỹ thuật nung lộ thiên, tạo dáng bằng tay, không bàn xoay, với những bình gốm cao, vai nở, miệng nhỏ, mang màu đất cháy đỏ như nắng miền cát. Gốm Quảng Đức học được từ gốm Chăm sự lặng thinh và tính nguyên sơ, nhưng dịu dàng hơn, thôn dã hơn, sự thanh bình tĩnh lặng trong gốm Quảng Đức giống như một mái nhà có khói bếp bay lên mỗi chiều.
Với gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), vốn nổi tiếng với nước men da lươn, đường nét thô ráp, cốt gốm rắn chắc và đậm đặc tinh thần nông nghiệp vùng châu thổ, thì gốm Quảng Đức giống như một nốt trầm phương Nam – bền bỉ, ít lời, đậm chất miền duyên hải gió cát. Nó như chiếc áo bà ba của người mẹ quê, không hào nhoáng nhưng ôm trọn cuộc đời các con.
Ngày nay, giá trị gốm Quảng Đức đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhìn nhận với con mắt khoa học: từ các hội thảo tại Bảo tàng Phú Yên, đến tài liệu chuyên ngành của Viện Khoa học – tất cả đều xác nhận: gốm Quảng Đức có ba dòng chính – đất nung thường (terracotta), gốm men vỏ sò (blood-cockle glaze pottery), và gốm men khác – thể hiện rõ ba thời kỳ sản xuất với kỹ thuật phát triển từ chân chất đến tinh xảo.
Ngày nay, giá trị gốm Quảng Đức đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhìn nhận với con mắt khoa học: từ các hội thảo tại Bảo tàng Phú Yên, đến tài liệu chuyên ngành của Viện Khoa học – tất cả đều xác nhận: gốm Quảng Đức có ba dòng chính – đất nung thường (terracotta), gốm men vỏ sò (blood-cockle glaze pottery), và gốm men khác – thể hiện rõ ba thời kỳ sản xuất với kỹ thuật phát triển từ chân chất đến tinh xảo.
Và thế giới đã chú ý. Khi Phú Yên đề xuất hồ sơ trở thành Công viên địa chất toàn cầu, các chuyên gia quốc tế từng ghé thăm Quảng Đức, khảo sát các mẫu gốm, đặt câu hỏi về giá trị văn hóa độc đáo, nhất là kỹ thuật sử dụng vỏ sò trong men – một phương pháp chỉ có ở Quảng Đức trong lịch sử gốm Việt Nam và Đông Nam Á. Gốm Quảng Đức đã đi từ hành trình đất nung để trở thành di sản văn hóa.
Những chiếc bình cẩn vỏ sò huyết Ô Loan tuyệt đẹp, niên đại thế kỷ XIX
Người làm gốm nói rằng gốm là sự giao hòa của tứ đại năng lượng: đất – nước – nắng – lửa. Nhưng tôi nghĩ, còn có một yếu tố nữa: tình yêu. Nếu không có yêu thương, không ai có thể ngồi hàng giờ trước lò nung đỏ lửa. Không ai có thể chờ đợi những mẻ gốm rạn nứt rồi bắt đầu lại từ đầu. Không ai có thể rơi nước mắt vì một chiếc bình vỡ sau nhiều ngày chăm chút. Chính tình yêu làm nên hình hài cho từng món đồ bình dị ấy. Đất cũng có hơi thở, có kiêu hãnh và có cả niềm đau. Mình mà hấp tấp, nó sẽ nứt. Mình mà gian dối, nó sẽ méo mó. Muốn làm được một món đồ gốm, phải sống chậm lại như đất. Phải nhẫn nhịn, phải chịu đựng, phải yêu thương.
Năm 2024, Quảng Đức được tổ chức UNESCO đưa vào danh mục khảo sát bảo tồn tri thức nghề thủ công truyền thống ở Đông Nam Á. Tín hiệu ấy như ngọn lửa âm ỉ bùng lên sau bao năm nguội lò. Từ một làng nghề tưởng chừng ngủ quên trong tro bụi thời gian, gốm Quảng Đức đã trỗi dậy như một phần không thể thiếu trong hành trình kiến tạo bản sắc của Công viên địa chất toàn cầu Phú Yên. Những chiếc bình gốm giờ đây không chỉ nằm trên kệ, mà có mặt trong các triển lãm quốc tế, được đưa vào giáo trình bảo tồn di sản, trở thành đại diện của một nền thủ công đặc biệt mà thế giới đang trân trọng gìn giữ.
Ông Trần Thanh Hùng – Chủ tịch UNESCO Club nghiên cứu và bảo tồn di sản Phú Yên – từng nhấn mạnh: gốm Quảng Đức không chỉ là cổ vật, mà là minh chứng cho tài năng sáng tạo và ý chí phát triển của vùng đất Phú Yên.
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Phú Yên cũng đang xây dựng chiến lược kết hợp du lịch làng nghề với giáo dục và bảo tồn, nhằm khôi phục cả không gian làm nghề, sản xuất truyền thống, và khôi phục niềm tự hào văn hóa dân tộc.
Gốm Quảng Đức không chỉ là một làng nghề. Đó là bản trường ca về sự sống, là chứng tích về một vùng đất không chịu quên mình trong lớp bụi thời gian.
Và trong hành trình tìm về những mảnh ghép yêu thương đã mất, tôi như thấp thoáng thấy bóng cha – ngồi dưới mái hiên, gương mặt tĩnh tại bình yên bên ấm trà gốm cũ – trong chính hình hài của đất.
Người ta thường ví von đất cũng có linh hồn, ở Quảng Đức, linh hồn ấy biết nói. Nó thầm thì trong từng chiếc cổ bồng kính cẩn trên bàn thờ gia tiên, trong từng chậu kiểng xanh lung linh hoa lá, trong từng chén cơm thơm ngát khói bay… Đó như một triết lý sống được hun đúc qua ngàn năm: sống đơn sơ mà bền vững, âm thầm mà không vô danh./.
Một chiếc chậu to trồng cây niên đại thế kỷ XIX-XX
Viết từ Trại sáng tác Phú Yên, tháng 7.2025 do Trung Tâm UNESCO Nghiên cứu Văn chương Việt Nam tổ chức
Bài và ảnh: Hồng Minh Nhân
Gốm là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, các ứng dụng của gốm rất đa dạng, phong phú về chủng loại.
Tôi vẫn luôn dùng bình gốm để pha trà giống như người ông của tg bài viết. Bài viết về gồm thật tuyệt vời.