NGUYỄN BÍNH VÀ KHÚC TRÁNG CA HÀNH PHƯƠNG NAM – HƯƠNG THU

Nhà thơ Nguyễn Bính là một trong những thi sĩ thời tiền chiến tôi đặc biệt yêu thích. Không chỉ riêng tôi, mà bọn học sinh chúng tôi hồi đó hầu như ai cũng say thơ Nguyễn Bính, bởi cái chất hồn hậu, chân quê và trữ tình trong thơ của thi sĩ. Sau này lớn lên, hiểu được cuộc sống với đủ mùi vị cay chua ngọt đắng, bài Hành Phương Nam đã làm tôi mê đắm bởi cái chất bi tráng của thể hành. Với tôi, đó là một khúc tráng ca bất tử với thời gian.
Cách đây, có lẽ cũng đã hơn 40 năm, đó là những thập niên đầu của những năm 1980, khi đất nước vừa thống nhất, tôi gặp nhà thơ Hoàng Tấn khi chúng tôi cùng sinh hoạt chung trong CLB Văn Nghệ sĩ Bình Thạnh, đó là CLB đầu tiên ra đời ở Tp.HCM sau ngày 30/4. Thời đó sinh hoạt văn thơ rất vui và thú vị, cứ mỗi tối Chủ Nhật chúng tôi lại gặp nhau ở Trung tâm Văn Hóa Quận Bình Thạnh, ngoài nhà thơ Hoàng Tấn, còn có nhà thơ Hoàng Hương Trang (Người có tên trong Thi Nhân Việt Nam), họa sĩ Phương Linh, nhà thơ Mạch Vạn Quốc …Trong nhiều buổi sinh hoạt, nhà thơ Hoàng Tấn thường hay kể những câu chuyện về nhà thơ Nguyễn Bính, toàn những câu chuyện thú vị mà báo chí chưa hề đăng, bởi cụ là bạn nối khố của nhà thơ Nguyễn Bính, “Hai người thân nhau còn hơn cả người tình” đo là câu nói nhà thơ Hoàng Tấn thường nói với mọi người.
Hai chúng tôi, dù kẻ tóc xanh, người đầu bạc, nhưng lại rất “ăn ý” trong nhiều vấn đề, nhà thơ Hoàng Tấn nhận tôi làm con nuôi, và tôi gọi nhà thơ bằng bố, gọi “mẹ Trâm” ( Bạn đời của bố) bằng mẹ.
Những câu chuyện về nhà thơ Nguyễn Bính đa số tôi đều được nghe từ bố Hoàng Tấn. Khi được hỏi về thời gian ra đời của bài Hành Phương Nam tôi được nhà thơ Hoàng Tấn cho biết, đó là giai đoạn năm 1943. Nhà thơ nói thêm “Bính vào Nam lần này là theo lời mời của bố, khi ấy bố và vài người bạn đang xây dựng nhân sự cho tờ Hạnh Phúc bộ mới. Lần này cũng là lần thứ hai Bính vào Nam”. Cùng đi với nhà thơ Nguyễn Bính khi ấy còn có cả Tô Hoài và Vũ Trọng Can.
Có một chi tiết trong bài thơ Hành Phương Nam đối với mọi người luôn là một ẩn số, đó là “Bài hành thi sĩ viết cho ai? Nhân vật “nhà ngươi” được nhắc đến trong thơ là ai? ”. Thắc mắc này tôi cũng đã hỏi bố Hoàng Tấn, và bố đã cười vang ha hả cả căn lầu hai cư xá Thanh Đa dạo ấy, đến nỗi mẹ Trâm đã phải lắc đầu “ Nguyễn Bính viết cho bố đấy”. Thì ra thế, thảo nào mà bốn câu mở đầu nghe thân tình đến vậy:
“Đôi ta lưu lạc phương Nam này/ Trải mấy mùa qua én nhạn bay./ Xuân đến khắp trời hoa rượu nở /Riêng ta với ngươi buồn vậy thay”.
Đọc bài hành với chất bi tráng, hào sảng của nó, tôi hiểu rằng cái buồn trong bài thơ, không phải là một cái buồn vu vơ “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ tôi buồn không biết vì sao tôi buồn” hay môt cái buồn sầu não của một kẻ thất tình trong thơ Xuân Diệu “Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều/ Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh”. Cái buồn trong Hành Phương nam là cái buồn của kẻ sĩ trước thời cuộc, trước thế sự đảo điên của lòng người, của vận nước: “Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu/ Mà không uống cạn mà không say ?/ Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã/ Mà áo khinh cừu không ai may”.
Tư Mã Tương Như đời nhà Hán, người quê ở Thành Đô, cùng với Trác Văn Quân con của một phú gia phải lòng nhau, nhưng nghĩ mình công danh chưa có, không xứng với Trác Văn Quân, Tư Mã rời quê hương lên Tràng An để lập chữ công danh, khi đi qua cây cầu bắc ngang con sông đầu làng, Tư Mã đã viết lên thành cầu một câu, đại khái nghĩa như sau: “Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa” , từ đó người ta gọi cầu đó là cầu Tư Mã. Tư Mã rất giỏi về phú, gặp Lương Vương cũng là người yêu thích thể từ, phú nên trọng dụng còn ban cho Tư Mã chiếc áo cừu túc sương. Tương truyền Khi Lương Vương mất, Tư Mã Tương Như về lại quê, và cùng Trác Văn quân trốn đi sống cuộc đời nghèo khó nhưng hạnh phúc.
“ Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã/ Mà áo khinh cừu không ai may”.
Nhà thơ buồn cho mình, cho cả những sĩ phu thời đó. Tư Mã Tương Như còn có Lương Vương nhìn ra cái tài của ông mà trọng dụng, còn ban cả áo cừu. Những kẻ sĩ như ông thời bấy giờ, giữa cuộc nhiễu nhương của thế cuộc, có mấy ai hiểu được tấm lòng của kẻ trượng phu! Nước mất, nhà tan, chí lớn chưa thành “ Người giam chí lớn vòng cơm áo/ ta trói chân vào nợ nước mây”. Ra đi, mang nặng cả nỗi niềm, những món nợ cuộc đời chưa trả hết “ nợ tình chưa trả tròn một món” mà chua chát thay “ Sòng đời thua đến trắng hai tay”! trên bước đường phiêu bạt, quay lưng chỉ thấy “ Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”! Đến bạn tâm giao được mấy người thì cũng kẻ Nam người Bắc, “Ngươi đi buồn lắm mà không khóc/ mà vẫn cười qua chén rượu đầy”. Một nỗi đau phải cố kìm nén, nuốt cả nước mắt vào trong, và chén rượu giải sầu trong ngày xuân dường như lại đắng hơn bao giờ.
“ Ngày mai xán lạn màu non nước/ cốt nhất làm sao tự buổi này” nhà thơ hy vọng một tương lại tốt đẹp hơn cho đất nước, và đã nhận chân ra được việc gì mình nên làm cho hôm nay và trong cuộc Hành Phương Nam đó, tôi nghĩ thi sĩ Nguyễn Bính không chỉ đi vì lời mời của nhà thơ Hoàng Tấn, mà ông còn đi vì giấc mơ kiêu hùng như tráng sĩ Kinh Kha khi qua sông Dịch đã khẳng định hai chữ hy sinh vì đại cuộc. Quả vậy, không lâu sau đó, nhà thơ đã tham gia vào cuộc cách mạng Tháng Tám – 1945 cùng hàng ngàn đồng bào trong cuộc tổng khởi nghĩa, tiến về Sài Gòn giành chính quyền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ trở nên khốc liệt hơn, nhiều chiến khu đã được thành lập, nhà thơ Nguyễn Bính đã được điều về U Minh Thượng. Cũng trong thời gian này những tác phẩm phục vụ kháng chiến được ra đời như: Trường ca Đồng Tháp Mười, Cửu Long Giang, nhưng tác phẩm để lại dấu ấn trong cuộc Hành Phương Nam của nhà thơ – một nhà chiến sĩ cách mạng có lẽ là bài “Tiểu đoàn 307”.
Hành Phương Nam, với thi sĩ Nguyễn Bính là một cuộc hành trình đầy cô đơn, nhưng không phải là nỗi cô đơn thường tình, đó là nỗi cô đơn của người tráng sĩ khi chưa gặp được bạn đồng hành hay minh chúa. “Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng kẻ biếu tay/ Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ, gươm cùn ta đi đây”. Mạnh Thường Quân ngày xưa còn có kẻ thức giả như Phùng Hoan hết lòng lo vun bồi chữ “Đức”, đốt hết văn tự mắc nợ của người dân ấp Tiết, nhờ đó mà sau này Mạnh Thường Quân mới được lưu danh thiên cổ. Còn thi nhân, mang nặng nỗi u hoài vì non nước, chỉ với một mảnh “gươm cùn”, một đôi “giày cỏ” thì biết đi đâu, về đâu khi khắp bốn phương trời đầy sóng gió? “Ta đi nhưng biết về đâu chứ ?/ Đã dấy phong yên lộng bốn trời/ Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi!”. Đau lòng lắm rồi! nóng cả ruột gan lắm rồi trước những phong ba mà dân ta phải chịu bởi sự áp bức của đế quốc Pháp. Thế nhân là ai? Là những người tài của đất nước, các người đâu cả rồi! ai sẽ như khách anh hùng thời Chiến Quốc mang tên Nhiếp Chính, xông thẳng vào phủ tướng quốc giữa thiên binh vạn mã để giết chết Hiệp Lũy rồi băm nát mặt mình tự sát để không ai nhận ra mình , khỏi liên luy đến người thân! “Hỡi ơi! Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?”. Quả là một khúc tráng ca đầy bi phẫn! và tôi say bài Hành Phương Nam của thi sĩ Nguyễn Bính cũng chính ở cái chất bi tráng đó. “ Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương Nam ta với ngươi”. Đến đây thì cái thần khí của bài thơ đã đạt đỉnh điểm!
Với tôi, Hành Phương Nam là một bài chính khí ca, một khúc tráng ca bất tử với thời gian, và cũng vì say cái thần trong Hành Phương Nam của thi sĩ Nguyễn Bính, tôi đặc biệt yêu thích thể hành bởi đó cũng là một dạng thơ gần với thơ Đường luật và tôi đã viết khá nhiều bài hành. Một trong số đó là bài Hành Phương Bắc, bài này tôi viết khi cùng nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu – ái nữ của nhà thơ Nguyễn Bính đi về Nam Định thăm mộ thi sĩ “Lỡ bước sang ngang”.

HÀNH PHƯƠNG NAM

Nguyễn Bính

Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ tình chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi hãy hay
Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ?
Cốt nhất cười vui trọn tối nay
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây
Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Dằn chén hất cao đầu cỏ dại,
Hát rằng phương Nam ta với ngươi.
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi sang bến ấy sao mà lạnh,
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi.
NB

HÀNH PHƯƠNG BẮC

Hương Thu

Theo dấu chân người hành Bắc Phương
Chiều nay dừng bước ở bên đường
Mây trời viễn xứ buồn ghê lắm
Đốt nén hương lòng mắt cứ vương
Thuở trước người đi tình một gánh
Đắng lòng hớp rượu buổi ly hương
Giang hồ món nợ sao mà nặng
Vời vợi quê nhà mắt gởi thương
Quê nhà mây trắng xa xôi quá,
Thơ thức quê người lệ thấm chương
Mỗi bước người đi buồn một bước
Từng đêm đối mặt với canh trường!
Phong trần thuở ấy ai hay nhỉ
Để áo khinh cừu lạnh dấu sương
Thơ vẫn đọc vang cười giữa chợ
Ngựa hồng vó bụi chẳng lơi cương!
Nhìn quanh bốn hướng trời đau quặn
Nhiếp Chính là ai? Ai Mạnh Thường?
Ngồi gọi thế nhân mà khản tiếng
Một bầu chính khí gởi quê hương!
Nam Phương chốn ấy thời phiêu bạt
Dẫu nghèo vẫn giữ nét thư lương
“Những phường bất nghĩa xin đừng đến”
Mái cỏ thềm rêu giữ ngát hương
Nam Phương từ độ người qua đó
Từng dấu chân thơ ấm bụi đường
Cho dẫu sòng đời thua trắng cả
Vẫn còn men rượu tiếng thơ buông
Giang hồ dấu cỏ mòn bao độ
Trăng khuyết, trăng tròn một nét gương
Quán lạnh những đêm buồn gió trống
Đời trôi theo mãi giấc vô thường
Nam Định chiều nay mây cũng trắng
Bóng thơ như vẫn dạo quanh vườn
Thi nhân áo bạc hơn màu khói
Mắt buồn gởi mộng đến Nam Phương
Nam Phương ngày cũ xa xôi quá
Nước mắt đoanh chiều đẫm khói hương
Nấm mộ thi nhân nền đất cũ
Hồn thơ vẫn thức giữa canh trường.
HƯƠNG THU

2 thoughts on “NGUYỄN BÍNH VÀ KHÚC TRÁNG CA HÀNH PHƯƠNG NAM – HƯƠNG THU

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *