NHỮNG CÂU CHUYỆN XOAY QUANH BÀI THƠ ” PHONG KIỀU DẠ BẠC” CỦA TRƯƠNG KẾ

Tác giả: HƯƠNG THU

 

Là Người làm thơ, nhất là dân thơ Đường, mấy ai lại không biết đến bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Một bài thơ nổi tiếng thời nhà Đường bên Trung Quốc. Hiện nay ở Việt Nam, Phong Kiều dạ bạc được người đọc xếp vào loại những bài thơ hay thời nhà Đường, mặc dù là thơ chữ Hán, rất kén chọn đối tượng, thế nhưng Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng đã tạo được một ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Trước hết vì chất thơ, vì tiết tấu và âm điệu của từ ngữ đã mang mang một nỗi niềm, cho dù người đọc có hiểu hay không hiểu được ý nghĩa của bài thơ đi chăng nữa, nhưng từ những âm sắc ấy đã cho ta một sự cảm nhận sâu lắng và tinh tế bởi cái hồn của con chữ, đó chính là sự thành công bước đầu của tác giả. Tiếp đến, nội dung ý nghĩa bài thơ – những nỗi niềm tác giả đã gởi gắm…

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Một không gian tĩnh lặng, đẹp và thật buồn. Trăng lặn, sương đầy trời, đâu đó tiếng quạ kêu đêm buồn da diết, một đóm lửa chài lẻ loi cô tịch giữa một dòng sông mênh mông, bên bờ hàng cây phong đứng lặng, tất cả đã khiến cho người lữ khách nhớ nhà không sao ngủ được, bỗng giữa sự tĩnh lặng ấy, bất chợt một tiếng chuông vang lên, cứ tưởng rằng sẽ xóa tan được sự cô tịch của đêm, trái lại còn làm tăng thêm vẻ tịch liêu của đất trời và của chính tâm hồn tác giả.

                                                                                              Dòng kênh phía trước chùa Hàn San 

Có rất nhiều ý kiến xoay quanh bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Tựu trung chia làm hai nhóm: Nhóm thứ nhất hiểu bài thơ theo như ý nghĩa của nó đã được người viết bài này bình ở trên. Nhóm thứ hai cho rằng: “Ô đề” không phải là tiếng quạ kêu, mà là một sơn danh, có nghĩa là chữ “Ô Đề” phải viết hoa, vì đó là tên một ngọn núi ở gần chùa Hàn San. Ngoài ra chữ “Sầu miên” ở câu thứ hai, cũng phải hiểu đó là tên một ngọn núi khác. Hơn nữa – theo ý kiến của nhóm này – quạ không bao giờ kêu đêm! Như vậy, theo ngữ cảnh của bài thơ, người đọc có thể hiểu: Trăng lặn  nơi ngọn núi Ô Đề, sương đầy trời. Ở giữa một dòng sông, với đóm lửa chài, bên bờ là hàng phong, phía xa đối diện với hàng phong là ngọn núi “Sầu Miên”.

                                                 Phong Kiều, nơi Trương Kế neo thuyền ngày xưa. Ảnh do tác giả chụp khi đi thực tế vào năm 2012 

Mao Tiên Thư đời nhà Thanh cho rằng: Ở Tô Châu đối diện với chùa Hàn San có núi Sầu Miên. Trong quyển Hội đồ Thiên gia thi của Chung Bá Kính cũng chú giải “Sầu Miên” là một sơn danh như Mao Tiên Thư, nhưng trong các quyển Đường thi Tam bách thủ chú giảiThiên gia thi chú giải đều chú thích “sầu miên” là:  ưu sầu bất đắc thành miên. Nghĩa là buồn đến nỗi không ngủ được.

Năm 2004, tác giả Nguyễn Tất Phan trong bài Nói thêm về Phong kiều dạ bạc đăng trên báo Văn nghệ số 29 cho rằng cụ Tản Đà đã nhầm khi dịch: Trăng tà tiếng quạ kêu sương/ lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ. Theo ông đã có một học giả người Nhật đi đến tận Hàn San Tự để tìm hiểu bài thơ và đã được sư cụ nơi đây giải thích: Nơi đây trước là đất Tô Châu, có một thôn là Ô Đề, và một ngọn núi tên là Sầu Miên.

Nhà thơ Tiểu Quỳnh , một nhà thơ của Trung quốc đã dẫn chứng với bài Đàm luận cổ kim Hàn San Tự trong tạp chí Trung Hoa Kiến thiết số 6 năm 1983 cho rằng:  Giang phong ngư hỏa đối sầu miên trong bài thơ của Trương Kế, chữ Giang và chữ Phong trong bài thơ cũng là danh từ riêng nốt. Chữ Giang ý chỉ Giang Thôn Kiều, chữ Phong ý chỉ Phong kiều, đó là hai cây cầu phía đông và tây, bắc qua con kênh trước chùa, cách xa nhau khoảng 100m.

Lại có ý kiến cho rằng các chùa không bao giờ đánh chuông vào ban đêm, do vậy bài thơ của Trương kế chỉ là “sản phẩm của tưởng tượng”, và sự tưởng tượng của thi nhân không logic chút nào!

Để tự giải đáp cho chính mình, nhiều học giả, khách yêu thơ – trong đó có tôi đã đích thân tìm đến Hàn San Tự để tìm hiểu về hình thái, địa lý nơi đây.

ảnh tác giả chụp ở Phong Kiều trước Hàn San Tự (nơi Trương Kế đã neo thuyền ngày xưa) ảnh đi thực tế năm 2012 

Trong số những người tìm về với Hàn San Tự trước đây có ông Nguyễn Quảng Tuân. Sau chuyến đi thực tế đó, ông Nguyễn Quảng Tuân có viết một bài đăng trên Tạp chí Văn học số 191, trong đó có đoạn: “ Chúng tôi khi về tận chùa Hàn San, đứng ở Phong Kiều bên Đại Vận Hà, nhìn quanh bốn phía đều không có ngọn núi nào ở gần, chỉ nghe nói ở tận xa, xa không nhìn thấy được mới có núi Linh Nham Sơn, Thiên Địa Sơn, Sư Tử Sơn, Hoành Sơn, Hà Sơn vv…Thế thì Trương Kế, nằm trong khoang thuyền, mà có nhìn ra ngoài cũng chỉ có thể thấy được những cây phong và những ngọn đèn chai, chứ làm sao có thể đối mặt được với “ngọn núi Sầu Miên” – một ngọn núi không có thực ở bên chùa”. và để minh chứng cho điều đó,  ông Nguyễn Quảng Tuân có đưa ra một số ảnh chụp ở bến Phong Kiều, chùa Hàn San …

                                                      Ngọn tháp nhô lên bên trái là Hàn San Tự, cây cầu trên dòng kênh là Phong Kiều. 

Sau khi tạp chí Văn học đăng bài viết của tác giả Nguyễn Quảng Tuân, tác giả Trần Long Hồ cũng có bài viết: Đoc lại Phong Kiều dạ bạc và có bổ sung một số ý kiến, đại thể cũng đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Quảng Tuân, Trần Long Hồ cho rằng: Nếu xét về ý thơ, với tài thơ của Trương Kế, thi nhân đang ngao du thuyền trên sông và đậu lại ở bến Phong Kiều, cảnh sắc hữu tình như vậy, không có lý gì ông lại mô tả cảnh sắc trên núi Ô Đề ở mãi tận đâu xa (Nếu quả thật có núi Ô Đề đi nữa).

Bài thơ của Trương Kế với nhiều nghi vấn được đặt ra:

  1. Tiếng quạ trong thơ của Trương Kế có phải là sản phẩm của tưởng tượng hay không, vì ban đêm không có quạ kêu.
  2. Giang và Phong có phải là tên hai chiếc cầu không?
  3. “Sầu Miên” và “Ô Đề” là tên của hai ngọn núi?
  4. Chùa Hàn San và các chùa khác có đánh chuông vào ban đêm hay không?

Để tìm ra đáp án của bốn nghi vấn này, trước hết chúng ta hãy thử đọc lại bài thơ của Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Nếu tất cả các từ: Ô đề, Giang phong, sầu miên, đều là danh từ riêng cả, thì than ôi! bài tứ tuyệt của Trương Kế với 28 từ, thì hết 11 từ là danh từ riêng rồi! Nhất là câu thứ hai, có bảy chữ, thì hết bốn chữ là danh từ riêng! Toàn bài thơ chỉ câu thứ tư là không có danh từ riêng nào! Và nếu lý giải như thế, thì theo tôi, bài thơ quá sức tầm thường. Hãy xem lại ý nghĩa của bài thơ, nếu hiểu theo cách này: Trăng lặn ở thôn Ô Đề,  sương đầy trời/ Núi Sầu Miên đối diện với Phong Kiều và Giang Thôn Kiều/ Chùa Hàn San ở ngoài thành Cô Tô/ nửa đêm tiếng chuông vang vọng đến thuyền khách. Không lý nào một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường bên Trung Quốc như Trương Kế lại làm một bài thơ toàn tả cảnh một cách tầm thường vậy ư? Vả lại, nếu tất cả các từ nêu trên đều là sơn danh hay địa danh thì không bao giờ đứng độc lập như thế. Trong chữ Hán, vì không có cách viết chữ hoa để phân biệt danh từ với danh từ riêng, do đó người ta không bao giờ để danh từ riêng đứng độc lập một mình. Ví dụ: chùa Hàn San thì người ta viết “Hàn San tự” (phải có chữ “tự” đi kèm). Cũng như vậy: nếu là thôn Ô Đề, phải viết là “Ô Đề thôn”, cầu Phong thì phải viết “Phong Kiều”, cầu Thôn thì phải viết “Thôn kiều”, núi Sầu Miên thì phải viết “Sầu Miên sơn” vv…

Riêng nghi vấn quạ có kêu ban đêm hay không, hay Trương Kế chỉ tưởng tượng (như một số nhà thơ ta vẫn hay tưởng tượng), cũng đã tốn giấy mực của nhiều người. Một số cho rằng: quạ có kêu vào ban đêm, một số ý kiến khác: quạ hay kêu vào lúc gần sáng. Thật ra, theo tôi, phàm ở đời, việc gì đôi lúc cũng có sự bất thường, một đôi khi, con quạ nó nổi hứng, nó cũng có thể kêu bất cứ khi nào nó thích, ai cấm được nó. Chẳng thế mà nhà thơ Quách Tấn cũng có bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” đó ư? Vả lại, “dạ bán” trong bài thơ của Trương Kế, có nghĩa là “nửa đêm”. Nhưng, “nửa đêm”, chỉ là một thời gian ước lược, cũng có thể là khoảng canh ba, cũng có thể là canh tư, hay lúc gần sáng… vì lúc ấy, có lẽ tác giả cũng chỉ thấy trời khuya lắm rồi, đoán là nửa đêm vậy thôi, chứ thời ấy làm gì có đồng hồ, hay điện thoại thông minh, I Pat … mà xem cho chính xác? Nếu thế, nói rằng quạ thường kêu lúc trời sáng, thì tiếng quạ trong thơ của Trương Kế cũng chẳng phải là vấn đề gì lớn, và chúng ta không thể đánh giá nhà thơ đã cho ra một sản phẩm thơ bằng sự tưởng tượng không logic được.

Lại nói đến chuyện chùa Hàn San hay các chùa khác có đánh chuông ban đêm hay không? Có lần ra thăm chùa Minh Thiện ở Diên Khánh, và nghỉ lại đêm ở đó, khoảng bốn giờ sáng tôi có nghe tiếng chuông công phu. Hỏi nhiều nơi, được biết các chùa thường thỉnh chuông vào khoảng ba hay bốn giờ sáng. Riêng tiếng chuông ở Hàn San Tự, vào cái đêm Trương Kế đậu thuyền ở bến Phong kiều, thì có câu chuyện hẳn hoi.

                                                                                                Ảnh tác giả chụp trước chùa Hàn San 

Chuyện kể rằng: Khi Trương Kế đậu thuyền trên bến Phong Kiều, nằm trong khoang thuyền ngắm nhìn sông nước, cảnh sắc u hoài nơi đây đã khiến nhà thơ nhớ nhà không sao ngủ được, bèn choàng dậy làm thơ, định làm một bài tứ tuyệt, nhưng chỉ mới được hai câu: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/ Giang phong ngư hỏa đối sầu miên”, thì tắt ý, không sao làm thêm câu nào được nữa. Trong khi đó nơi chùa Hàn San, sư cụ trụ trì cũng không ngủ được, bèn thả gót dạo vườn trăng, vừa đi, vừa làm thơ và cũng chỉ làm được hai câu:

Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung

Bán tự ngân câu, bán tự cung

Tạm dịch như sau: “đầu canh ba, canh tư trăng còn mờ ảo, nửa như cái móc bạc, nửa tựa cánh cung”, và cũng chỉ có thế không sao làm nốt được.

Có một chú tiểu trong chùa, đêm hôm ấy, chẳng biết vì lẽ gì cũng trằn trọc canh chầy, không sao ngủ được, cũng choàng dậy, định đi dạo, gặp sư cụ, người trao hai câu thơ, chú tiểu đọc xong bỗng cảm hứng viết luôn hai câu sau:

Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn

Bán trầm thủy để, bán phù không

Hai câu thơ này có thể dịch:

Vầng trăng ai xẻ làm hai

Nửa in đáy nước, nửa cài trên không

Sư cụ khen hay, thầy trò đọc đi, đọc lại tâm đắc với bài thơ. Sư cụ vui mừng, bảo chú tiểu thắp hương, thỉnh chuông để tạ ơn trên. Tiếng chuông của chùa Hàn San vang lên thanh thoát trong đêm tĩnh lặng. Đúng lúc đó, dưới thuyền, Trương Kế đang loay hoay suy nghĩ tìm tứ của hai câu sau, nghe tiếng chuông, tứ thơ bỗng đến, liền viết luôn hai câu kết:

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Đó là lý do vì sao có tiếng chuông nửa đêm trong thơ của Trương Kế.

                                                                                                    Gác chuông chùa Hàn San 

Trong lần đi thực tế, tôi đã tìm đến nơi Trương Kế từng đỗ thuyền vào đêm hôm ấy. Đã lên Phong Kiều đứng quan sát tư bề để tìm xem có ngọn núi nào quanh đó không, nhưng tuyệt nhiên không thấy, cho dù là ở xa xa, tầm mắt mình có thể nhận dạng được, cũng không thấy. Khi đọc bài thơ của Trương Kế, tôi cứ hình dung, chùa Hàn San phải ở trên núi, và Trương Kế đậu thuyền dưới bến, nơi chân núi. Nhưng khi đi thực tế, tôi mới biết không phải vậy (Có lẽ tôi bị cái tên chùa làm sai cảm giác). Thật ra, Phong Kiều được bắt qua một con sông nhỏ, bề ngang độ bằng một con kênh của ta, hai bên có những hàng cây phong, cành rũ lá hai bên bờ rất nên thơ. Chùa Hàn San chỉ nằm cách bến Phong Kiều một con đường nhỏ là đã thấy cổng tam quan, nhưng từ bến Phong Kiều đi vào trung tâm chùa, đến tháp chuông, phải khoảng non một cây số, và đường hơi dốc. Đọc lại bài thơ của Trương Kế, tôi mới vỡ lẽ, thì ra chỉ do mình có cảm giác sai thôi, chứ nhà thơ đâu có nói chùa Hàn San nằm trên núi! Nói như thế để minh chứng một điều: Mỗi người khi đọc một bài thơ sẽ có những cảm nhận khác nhau về bài thơ. Có những cảm giác đúng và cũng có những cảm giác sai, nhưng thơ vẫn là thơ – là cảm xúc thật của tác giả. Khi đến Bến Phong Kiều, nhớ câu chuyện cũ, tôi đã viết bài thơ:

QUA HÀN SAN NHỚ “PHONG KIỀU DẠ BẠC”

Gió nổi ngàn phương nhớ một phương

Biết ai cùng cạn chén hồ trường

Phong Kiều chuông thức niềm cô lữ

Trương Kế hồn tan dấu thịnh Đường!

Đâu tiếng quạ buồn trời  dạ bạc?

Đâu thuyền khách cũ chốn đài sương?

Đốt thơ hâm rượu trong chiều lạnh

Gió nổi ngàn phương nhớ một phương

2 thoughts on “NHỮNG CÂU CHUYỆN XOAY QUANH BÀI THƠ ” PHONG KIỀU DẠ BẠC” CỦA TRƯƠNG KẾ

  1. Rose MN says:

    Bài viết thật hay, lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện văn chương của tác giả và cả những hình ảnh sinh động.
    Tương truyền, Trương Kế đỗ đạt muộn, từng thất bại trong kỳ thi Tiến sĩ ở Trường An. Trên đường trở về quê, ông ghé thuyền bên bến Phong Kiều, Tô Châu. Trong đêm sương lạnh, ông thao thức không ngủ, nghe tiếng chuông Hàn San chùa vọng đến qua sông. Cảm xúc dâng trào, ông viết nên bài thơ này chỉ trong khoảnh khắc.
    Sáng hôm sau, khi nộp bản thảo thơ cho một vị quan có học, ông được khen là “thi trung hữu họa, họa trung hữu thanh” – “trong thơ có tranh, trong tranh có tiếng” – và từ đó, danh tiếng của Trương Kế lan khắp Đường triều, cho nên em cũng nghĩ ô đề chính là tiếng quạ kêu..
    Tò mò vụ quạ kêu ban đêm, em tra thử từ nguồn Marzluff & Angell, In the Company of Crows and Ravens (Yale University Press, 2005), Cornell Lab of Ornithology – “Crows are generally quiet at night unless disturbed”, Nghiên cứu của Nishi et al., 2013 (Journal of Ornithology) “Corvids exhibit almost no vocalization after sunset except under stress stimuli.” thì ra kết quả là: Bọn quạ sẽ kêu ban đêm khi gặp các yếu tố sau đây: Bị ánh sáng mạnh chiếu vào (như đèn đường, trăng sáng), bị kẻ thù hoặc động vật khác tấn công làm hoảng sợ, bị con người tác động hoặc có âm thanh lớn gần đó.

    Em rất thích bài thơ QUA HÀN SAN NHỚ “PHONG KIỀU DẠ BẠC” , câu thơ “Gió nổi ngàn phương nhớ một phương” nghe thấm quá!

    Cảm ơn tác giả Hương Thu!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *