Tác giả: HỒNG MINH NHÂN
Tôi trở lại Tuy Hòa vào một sáng tháng Bảy, một buổi sáng trong veo, gió biển nồng nàn mùi muối và tiếng gà gáy vang vọng qua mấy rặng dừa thôn xóm. Sau nhiều năm, mảnh đất ấy vẫn son sắc như buổi ban đầu. Vẫn là màu xanh của đồi núi, màu trắng bạc của sóng biển, và sắc vàng của nắng miền Trung trải khắp những con đường uốn quanh triền đồi. Chỉ có tôi là đã khác.
Những cánh đồng xanh bạt ngàn vương làn khói thanh bình êm đềm
Cũng một tháng hè vàng nắng, tôi đã đến đây cùng anh. Một chuyến đi ngắn, một khoảnh khắc quý giá nhưng để lại trong tôi một miền ký ức dài như con đường ven biển Tuy Hòa – Vũng Rô. Anh dắt tôi đi qua những cung đường hoang sơ, giọng nẫu dầy âm sắc nói cười rộn ràng giữa nắng gió. Biển khi ấy xanh lạ, như lòng người đang yêu – trong veo, mênh mang, và tràn đầy háo hức. Tôi còn nhớ khi đứng trên đồi hoa vàng cỏ xanh, anh đã nhìn vào mắt tôi và nói rằng: “Mình sẽ quay lại đây, nhiều lần nữa, kể cả khi tóc đã bạc.” Nhưng… chúng tôi đã không quay lại, tóc chưa bạc, lòng người đã đổi khác, lời hứa khắc cốt ghi tâm ấy như con sóng cao tưởng rất mạnh mẽ đã vỡ tan tành dưới ghềnh đá Bãi Xép. Và giờ đây, tôi trở lại Tuy Hòa. Không anh!
Phú Yên có lẽ vẫn vậy nhưng tôi thấy mọi thứ đều mới mẻ. Chắc do tôi đã không còn là tôi của ngày xưa thơ mộng, ngày tôi bị anh nắm tay lôi đi, trôi tuột, chìm đắm, choáng ngợp… trong biển tình. Còn hôm nay, tôi trở lại vì bị mấy con chữ trong một tiêu đề thu hút: “Lặng để nghe – Chậm để cảm.” Và Phú Yên êm đềm trong sâu thẳm thôi thúc tôi chất đồ lên ba lô, rồi đi. Không phải để níu kéo những gì đã cũ. Mà để đối diện với chính mình, để sống như mình vẫn mong muốn.
Tôi đến Phú Yên lần này trong khuôn khổ Trại sáng tác do Trung tâm UNESCO Nghiên cứu
Văn chương Việt Nam tổ chức. Những ngày ngắn ngủi bên chị Hương Thu – chủ tịch Trung Tâm – điềm tĩnh tận tâm trách nhiệm, bên nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu đôn hậu hóm hỉnh, bên các nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ khác, tôi được mời gọi bước vào một nhịp sống khác – chậm rãi, sâu lắng và thấm đẫm sắc màu cần cù của biển, của trời, của mồ hôi người lao động, tôi càng cảm rõ hơn vẻ đẹp thầm lặng của vùng đất nơi có tia nắng đầu tiên chạm vào đất liền này.
Theo chân đoàn, tôi đến với nhà Bảo tàng Phú Yên, nơi lưu giữ truyền thống văn hoá lâu đời của rẻo đất này. Điều khiến tôi ấn tượng nhất ở nơi đây chính là tầng trưng bày những hiện vật cách mạng.
Trong tủ kính tôi nhìn thấy những di vật tưởng như rất vô tri nhưng lại đang chứa đựng hơi thở, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng gào thét đã từng bật ra trong đêm đen khói lửa.
Những vật dụng của đời thường từng được tận dụng phục vụ kháng chiến
Đất nước này đã đi qua bao cuộc binh đao, máu xương và nước mắt thấm vào đất mà nảy mầm thành lúa, thành hoa, thành cây đời bất tận. Người Phú Yên từ trong gian khó vẫn kiên cường gìn giữ những gì còn lại — như giữ lấy ký ức không để nó tan biến trong quên lãng.
Với chiếc xe đạp này, nguyên bí thư tỉnh ủy Phú Yên Nguyễn Duy Luận đã vận chuyển vũ khí,
lương thực theo đường mòn Hồ Chí Minh chi viện cho chiến trường Phú Yên.
Những chứng tích ấy bằng cách nào đó có thể kể được những câu chuyện mà sách vở không thể viết hết, lời kể của cha ông không thể truyền trọn.
Nhìn những mảnh sắt thép đã sần sùi gỉ sét, tưởng như vẫn còn nghe thấy tiếng nổ long trời lở đất, vẫn còn thấy bóng dáng người mẹ ôm con chạy vào hầm trú ẩn, người cha quẩy đôi quang gánh nặng đạn dược vượt núi rừng. Những bức tường chi chít lỗ đạn sau những lần giặc đến càn quét, nhà cháy, người chết, nhưng ý chí không bao giờ tắt.
Tay chai bám đất bạc đầu
Dây thép vắt lối nẻo sâu chông gài
Nghe trong tiếng sóng thở dài
Hồn làng thổn thức tháng ngày chưa yên.
Vỏ bom xăng napalm, tàn tích xe tăng, máy bay địch
Xác máy bay địch bị bộ đội Phú Yên bắn hạ
Những chiếc đèn dầu, đèn pin từng lập lòe trong đêm tối nô lệ để làm ám hiệu cho bộ đội, những chiếc lò dầu bám bụi, chiếc nồi móp méo, cái lon guigoz… từng là những vật dụng quý giá cho đời sống du kích, những bầu tre mộc mạc – là cả kho lương khô, mắm cá, gạo sắn, lủi qua đồng bãi, băng qua chốt đồn, nuôi quân giữa lòng địch. Người nông dân tay cày, tay súng, tay rựa để phát lau, mở đường, cũng để dựng chòi che đạn pháo, cũng để phòng thân khi giáp mặt quân thù.
Bầu tre đựng gạo, cõng cơm
Vượt qua chốt giặc, đêm hôm không sờn
Lưỡi rựa bén tựa lòng dân
Chông gai nén chặt, mộ phần giặc phơi..
Trên miền cát trắng gió biển miệt mài, những cái cuốc xẻng, gậy gộc, bẫy chông trái ấu…vốn thân thuộc với đời sống, đã bất đắc dĩ trở thành vũ khí để tự bảo vệ mình, bảo vệ làng xóm láng giềng. Người dân vùng duyên hải không chỉ gồng mình cùng sóng gió, mà còn phải oằn lưng giữa hai bờ sinh tử, giữ từng đụn cát, giữ ruộng lúa, giữ con đường tiếp tế cho bộ đội nơi rừng núi xa. Chúng nằm im đó, như một khúc ca bi tráng nghiệt ngã, để những thế hệ sau này hiểu rằng hòa bình chưa bao giờ là món quà rơi xuống từ trời cao.
Gió lên mặn chát bờ tre
Mồ hôi thấm cát lời thề giữ quê
Đêm trường lửa đạn dội về
Vững lòng đất thép chẳng hề lung lay.
Trong đêm, những truông cát, rừng dừa nước, con đường mòn lối cũ đã trở thành huyết mạch của cả phong trào chống Mỹ. Bà mẹ gánh gạo, cha đào hầm, con trẻ lót đường chôn chông, kẽm gai… Mồ hôi rơi xuống mặn như vị biển, trộn cùng mùi thuốc súng, rỉ sét sắt thép, kết thành một lớp rào vô hình chở che cho làng xóm.
Ánh đèn dầu lạc trong đêm
Đường qua truông cát, thành thềm hào sâu.
Mẹ cha gánh cả khát khao
Chông gai rào giữ, biết bao nhọc nhằn.
Rời Bảo tàng, đoàn đưa tôi ra quảng trường ở Bình Kiến, Tuy Hòa. Ngày đó Phú Yên chưa có tháp Nghinh Phong. Nay trước mặt tôi, công trình cao 35 mét ấy đang sừng sững trong nắng trưa.
Nghinh Phong đoạt giải Cảnh quan đô thị Châu Á,
Công trình du lịch thành phố hàng đầu thế giới 2023 tại World Travel Awards.
Tháp Nghinh Phong không chỉ là một công trình kiến trúc đẹp mắt
mà còn là một biểu tượng văn hóa của Phú Yên.
Người ta bảo hai tòa tháp tượng trưng cho Cha Rồng – Mẹ Tiên và bầy con chia đôi đi gánh vác giang sơn, nhưng chẳng hiểu sao nghe ngắm hai khối tháp được xây để tạo hiệu ứng gió reo, ngắm những tảng đá xếp chồng lên nhau mô phỏng gành đá dĩa kia tôi lại liên tưởng đến truyền thuyết “Sơn Tinh – Thủy Tinh”, về cuộc đuổi bắt bất tận giữa đất và nước, giữa người và thiên nhiên, để chế ngự, để chinh phục, để hạnh phúc.
Tôi ngập chìm trong gió táp Nghinh Phong, lòng biết ơn những gì mình đã nghe, đã cảm, đã đi qua.
Nghinh Phong bình thản lặng thinh
Gió rít tung xé bóng hình chia đôi
Không cần yêu nói thành lời
Lặng nghe nhau giữa khoảng trời chênh vênh
Không có nỗi nhớ nào là vô ích, nếu nó khiến ta sống trọn vẹn hơn trong hiện tại.
Tôi nhắm mắt. Trong tích tắc, mọi âm thanh của phố thị biến mất. Chỉ còn nhịp thở của chính mình – rõ và thật.
Hôm sau, đoàn đưa tôi ra thăm một cù lao nhỏ. Thuyền xé sóng băng qua vùng biển xanh biếc màu ngọc bích, đến Cù Lao Mái Nhà, một rẻo cát đầy cây xanh nằm yên tĩnh trong một vũng nhỏ chung quanh có núi thấp bao phủ, tôi có dịp hiếm hoi được sống chậm lại, như những con sóng lăn tăn vỗ bờ cát đầy mảnh san hô.
Sớm mai ở đây người ta sẽ thức giấc trong tiếng sóng hòa tiếng gió reo lao xao tán lá, chứ không phải trong tiếng alarm phát ra từ điện thoại bản giao hưởng định mệnh của Beethoven. Theo chân người ngư dân, chúng tôi xuyên qua cánh rừng nhỏ đầy phi lao, bước chân trần vui thích leo lên những khối đá vững chắc, sạch boong, men theo lối cát ướt, nghe gió biển luồn qua tóc, mằn mặn vị sớm mai.
Ở phía chân trời, mặt trời màu cam lộng lẫy nhô lên khỏi mặt biển, tỏa vệt sáng vàng loang loáng dát bạc sóng xanh. Giây phút ấy, tôi thấy buồng tim mình chợt rộng ra, mọi muộn phiền rơi lại phía sau, chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ về như câu kinh tỉnh thức.
Rừng dừa hong giọt sương mai
Mặt trời rót mật dặm dài biển khơi
Gió hè ve vuốt bờ môi
Sóng êm vờn ánh mặt trời thảnh thơi.
Ngày ở cù lao cứ thế trôi nhẹ như mây trời. Trưa tắm biển thoả thích xong tự ra giếng kéo nước lên tắm, nước mát lạnh, mùi rong còn vương nhẹ. Chiều ngồi xích đu đong đưa dưới tán bàng, ngắm trẻ con chơi đùa giỡn sóng, đợi hoàng hôn nhuộm tím vòm trời rồi lịm dần vào đêm.
Đêm trong veo và rì rào tiếng sóng, chúng tôi quây quần bên ánh lửa bập bùng, tiếng ghi ta réo rắt, cùng hát ca, cùng đùa vui, trăng tròn vành vạnh chơi cút bắt lúc ẩn lúc hiện sau tán lá rừng.
Cả cù lao nhỏ được cung cấp điện cái máy phát nhỏ, phải tiết kiệm từng bóng đèn vàng leo lét. Chẳng còn ai thức khuya, chẳng còn con cú đêm_tôi rã rời nơi phố thị. Điện tắt sớm, người ngủ sớm, lòng cũng lặng sớm — như một cách trở về, gột sạch bụi ồn ào.
Trăng soi mặt giếng êm đềm
Lều thưa khát gió ru mềm giấc say
Ánh sao lấp lánh đêm dài
Lắng nghe sóng hát, trần ai tan dần.
Sống chậm, để thở cùng biển. Sống chậm, để chạm tay vào từng giọt sương, từng bông hoa biển dại mọc ven đường, hé cánh ngậm sương. Giữa cù lao hoang sơ mà lòng chẳng hề cô quạnh — bởi trong tiếng sóng vỗ hiền, ta mới hiểu: hạnh phúc là khi còn nghe được gió hát, ngắm trăng sao xa tít trên cao và nhớ đến trái tim ngay trong lồng ngực, để còn biết cuộc sống không chỉ hối hả và cay nghiệt mà còn thênh thang bình yên…
Hoa Quan Âm biển (Mạn kính lá đơn) mọc dại giữa những hốc đá
Phú Yên không dạy tôi cách quên. Phú Yên dạy tôi cách nhớ mà không đau, cách yêu mà không cần giữ, cách sống mà không cần vội.
Tôi trở về từ nơi ấy – phía dịu dàng của đời sống. Nơi mà bánh tráng, thúng chai, nong tằm, vườn dâu, lúa vàng, thuyền xanh, … đều là những bài học giản dị về cần cù, kiên nhẫn và chân thành. Nắng rồi tắt, cầu vồng rồi tan, ngày chói lọi mấy cũng tàn, chỉ có những gì thuộc về vùng đất này như tằm nhả tơ, như bàn tay đầy vết chai đan thúng, như bột gạo tráng bánh ánh sắc tinh khôi… là còn mãi. Vì nó không dựa trên lời nói suông. Nó nảy mầm từ bàn tay lao động, từ nỗ lực không ngừng, từ tình yêu đất mẹ, ngày nối ngày không ngừng nghỉ.
Và có lẽ, nếu có một điều tôi mang theo sau tất cả, thì đó chính là: Lặng để nghe – Chậm để cảm. Đó cũng là một cách hay để hiểu mình, hiểu người, để thấy được những điều quý giá trong đời.
Tim tôi ơi, hãy đập những nhịp đập dịu dàng, sống trọn từng ngày bình yên, hạnh phúc, nhé!
Phú Yên tháng 7, 2025
Bài và ảnh: Hồng Minh Nhân
Xin cảm ơn ngòi bút tài hoa của tác giả. Mỗi con chữ đều thấm đẫm mạch nguồn cảm xúc sâu lắng. Tôi bỗng thấy lạ lùng thay, đây nào phải nỗi lòng của một lữ khách chỉ ghé qua mảnh đất này trong thoáng chốc phiêu du! Mà hơn thế, tôi cảm nhận sự lắng đọng diệu kỳ trong từng câu chữ là cả nỗi niềm trĩu nặng của một người con “xứ nẫu” tha thiết gửi gắm…
Đây có lẽ là bài viết hay nhất và cuối cùng tôi được đọc về địa danh yêu dấu này. Rồi nhiều năm tháng nữa trôi qua, người ta sẽ không còn nhớ đến khát vọng một thời về “đất Phú, trời Yên”. Thay vào đó, đơn giản hơn, họ chỉ gọi tên là miền đất duyên hải của Đắk Lắc