tác giả: Lê Ngọc Thạc
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, hoa sen đã được nhân dân ta trân trọng dành cho một vị trí vô cùng đặc biệt. Ở nước ta, hoa sen là loài hoa đặc trưng và được chọn là quốc hoa. Tất cả mọi người, hầu như ai cũng thuộc lòng bài ca dao bình dị sau đây:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thế nhưng, nội hàm bài ca dao quen thuộc, dễ đọc, dễ nhớ này lại mang một triết lý nhân sinh vô cùng thâm thúy.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Câu mở đầu của bài ca dao là sự khẳng định: Sen là loài hoa đẹp nhất trong các loài hoa mọc ở chốn đầm lầy! Tác giả dân gian đã vô cùng khéo léo khi không dùng dạng câu khẳng định thông thường mà dùng một câu hỏi tu từ.
Câu hỏi tu từ là dạng câu hỏi đặt ra chỉ nhằm khẳng định một ý kiến hoặc một nhận xét nào đó chứ không phải để người đối thoại đưa ra câu trả lời. Nó có tác dụng dẫn dắt người đọc đi đến sự đồng tình. Bản thân câu hỏi đã là câu trả lời và có sức lôi cuốn gấp nhiều lần so với câu khẳng định thông thường.
“Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”. Từ sự khẳng định sen là loài hoa đẹp nhất ở nơi đầm lầy, tác giả dân gian đã dùng câu 2 để miêu tả tỉ mỉ và sinh động vẻ đẹp của cây sen, nhằm chứng minh cho nhận xét trên là hoàn toàn đúng.
Cây sen được miêu tả từ ngoài vào trong, tỉ mỉ từng bộ phận từ lá, bông đến nhị… Lá sen thì màu xanh, bông sen màu trắng thuần khiết, nhị sen điểm màu vàng… Chúng ta chú ý từ “chen”, từ này có giá trị gợi hình cho người đọc sự cảm nhận: các bộ phận của cây sen đua nhau khoe với cuộc đời vẻ đẹp của mình. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên với nhiều sắc màu kết hợp kỳ diệu. Đến đây, người đọc tưởng tượng ra trước mắt mình hình ảnh khóm sen, mọc lên giữa đầm nước trong veo mùa hạ. Lá sen màu xanh nổi trên mặt nước, cánh sen trắng muốt, tinh khôi và hương thơm thoang thoảng, tỏa ra từ những nhị hoa màu vàng…
“Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”. Câu thứ 3 thật bất ngờ làm sao! Cũng là những hình ảnh cũ, nhưng vị trí đã bị hoán đổi. Đây là câu đặc biệt của bài ca dao, nó mang ý nghĩa của một câu chuyển (chuyển vần và chuyển ý).
– Chuyển vần: Vần thơ được chuyển từ “ang” sang “anh”.
– Chuyển ý: Nếu như câu 2 miêu tả sen từ ngoài vào trong thì câu 3 lại miêu tả từ trong ra ngoài. Nhà thơ Huy Cận đã từng hình dung tác giả dân gian đang “lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng…”. Cách đảo ngược trật tự từ ngữ này còn mang đến cho người đọc cách nhìn đa chiều: Nhìn từ ngoài vào trong hay nhìn từ trong ra ngoài thì sen cũng đẹp cả!
Hai chữ “nhị vàng” ở cuối câu 2 được lặp lại ở đầu câu 3 theo thủ pháp liên hoàn có tác dụng tạo nên sự liên tục trong tư duy và cảm xúc khiến bài ca dao phát triển liền mạch và mạnh mẽ về nội dung lẫn hình thức. Câu thứ 3 có giá trị chuyển bài ca dao từ nghĩa hiển ngôn sang nghĩa hàm ẩn. Câu thơ khép lại hình tượng hoa sen để mở ra hình tượng con người một cách thật tài tình.
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Quả thực câu kết này là đỉnh điểm, là cái thần của bài ca dao. Nếu thiếu câu này thì hoa sen sẽ không có linh hồn và bài ca dao sẽ không mang tầm cao triết lý nhân sinh lồng lộng. Đến đây thì không còn là hoa sen trong thiên nhiên nữa mà chính là con người trong cuộc đời. Ý nghĩa ẩn dụ của hoa sen đã mở ra không còn giới hạn trong tư duy người đọc.
Với bút pháp ẩn dụ tài hoa, tác giả dân gian giúp cho người đọc nhận thức rằng: Sen chính là con người, bùn trong đầm lầy (nghĩa đen) đã biến thành bùn lầy trong cuộc đời (nghĩa bóng).
Câu kết bài ca dao đặt ra mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống (môi trường xã hội). Thông qua đặc điểm của hoa sen, nhân dân ta thể hiện thái độ khẳng định giá trị, nhân phẩm của con người phải luôn được gìn giữ trong sạch dù môi trường xã hội có đầy rẫy những thói xấu xa, độc ác. Đây là lẽ sống cao đẹp của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Bài ca dao là sự kết hợp tuyệt vời giữa hình thức nghệ thuật với tình cảm, ý tưởng của tác giả dân gian. Bốn câu thơ ngắn gọn nhưng được sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: Câu hỏi tu từ, phép ẩn dụ, tương phản… Nhịp thơ chậm rãi 2/2/2… khiến câu thơ như một sự chiêm nghiệm về cuộc đời để rồi đi đến kết luận.
Những câu lục bát chảy qua bốn dòng thơ giản dị, dễ hiểu; nhưng ý tưởng thật sâu xa mang tầm cao triết lý nhân sinh lồng lộng. Bài ca dao xứng đáng là viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Việt Nam. L.N.T