TẢN VĂN
Tác giả: HỒNG MINH NHÂN
Nếu ai đó từng một lần ngồi trên chiếc thuyền thúng giữa biển bạc miền Trung, hẳn sẽ chẳng thể quên được cái cảm giác bập bềnh dễ thương ấy. Thúng tròn như chiếc nón lá lật ngược, chở ta đi lướt qua những rặng dừa nước nghiêng mình soi bóng. Mái chèo khua nhẹ, gió lăn tăn, tiếng cười khúc khích hòa quyện câu hò. Một chiếc thúng bé nhỏ mà gói ghém bao đời người ra biển, quay về…
Thuyền thúng nhỏ xinh quay tròn giữa lá, Dừa rì rào ru sóng nước mênh mông.
Tay đẩy mái chèo, khỏe, nhanh cưỡi gió Câu hát bung tràn lồng ngực thong dong.
Lang thang vùng duyên hải xanh biếc miền Trung, tôi thật sự ưa thích chiếc thuyền thúng nhỏ bé, gắn bó với người ngư dân Việt hàng trăm trăm năm. Không chỉ là phương tiện đánh bắt, chiếc thúng biết bơi ấy đã trở thành hình ảnh thân thương của làng chài Việt Nam.
Thúng là bạn với mây, trời, sóng, Thúng vững vàng tha thiết bởi tình anh. Một vòng tre chứa chan hồn biển mặn, Một vòng tròn ôm ấp cả trời xanh.
Việt Nam có thể coi là xứ sở của thuyền thúng, đặc biệt ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Chẳng cần máy móc cầu kỳ, hoàn toàn thủ công, có lẽ hiếm có vật dụng nào lại gói ghém trong nó một triết lý thâm trầm như thuyền thúng. Chiếc thuyền thúng sinh ra từ đôi tay người thợ chài lưới. Tre già được lựa kỹ, chẻ nan đều tay, đan thành tấm tròn như chiếc rổ khổng lồ. Vành thúng uốn chặt, dây mây buộc khéo. Rồi từng lớp nhựa đường, dầu rái quét lên, phơi nắng để chống thấm nước. Lớp này khô, người ngư dân lại khề khà ra sân vừa hút điếu thuốc vừa quét tiếp. Chỉ thế thôi, mà thúng có thể bền bỉ cưỡi sóng, gánh lưới, đưa cá về bờ.
Nan tre xanh đan khéo bởi tay người,
Dẫu gió dập ta vẫn cười trước sóng.
Từng sợi mây bện tình làng nghĩa xóm,
Cá nhảy tung, cơm chiều bỗng thơm lừng.
Mềm và bền, từng chiếc thúng như chứa đựng một triết lý sống. Nó không vuông vức, không sắc cạnh. Nó tròn để xoay, để chịu sóng gió mà vẫn ung dung nguyên vẹn. Người miền biển học cách sống như thúng hay thúng cũng đang học cách sống như người: biết co mình trước bão tố, nương theo sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên mà tồn tại, luôn bền gan vượt ngàn khó khăn khắc nghiệt nơi đầu sóng ngọn gió.
Thuyền thúng là mảnh hồn của làng chài, cha truyền – con học cách đan tre, anh bôi dầu nơi thuyền bung tróc sau mỗi chuyến hải du, mẹ gom lưới vào ngồi vá trong bóng chiều, lũ con nít ngủ quên trong lòng thúng khi gió đêm lồng lộng.
Một vòng thúng ôm trọn giấc con mơ,
Bà vui thích nướng cá trên bếp lửa.
Bão tố đến, thúng bình yên ngoài ngõ,
Vòng tròn xanh, biếc như ánh trăng rằm.
Trên khắp thế giới, ít nơi nào có được chiếc thuyền thúng đặc sắc như Việt Nam. Cũng có vài dân tộc dùng thuyền tròn được gọi là coracle ở xứ Wales, Anh, Scotland, vài vùng Ấn Độ. Coracle tiếng Latin nghĩa là “giỏ” (basket). Coracle vốn đã tồn tại từ thời La Mã, nay vẫn được sử dụng, ngoài chuyện hình tròn giống thuyền thúng xứ ta, thì mọi thứ đều khác.
Khung coracle đan bằng cành cây mềm (liễu, dẻ gai…) dễ uốn và bền. Họ uốn cong các nan chính thành hình tròn hoặc bầu dục, các nan phụ đan chéo, tạo thành khung lưới vững chắc. Viền miệng coracle được ghép bằng cành gỗ dày, đôi khi buộc thêm dây da để giữ dáng. Sườn trong được gắn thêm xà ngang nhỏ để gia cố độ cứng, da động vật, vải bố quét hắc ín, sơn để chống thấm, người Celtic xưa dùng da bò, da ngựa khâu phủ bên ngoài khung.
Họ không dùng mái chèo dài mà là một mái chèo ngắn, người lái ngồi ở giữa và điều khiển bằng một tay, tay kia giữ thăng bằng.
Một chiếc coracle chụp ở Scotland
Nhưng khác biệt lớn là coracle chủ yếu dùng trong sông suối hồ yên tĩnh, được làm bằng cây liễu gai hay da bò, chỉ cho một người ngồi, chèo tay. Còn thuyền thúng Việt Nam thì lại để vươn ra biển lớn. Thuyền thúng Việt Nam bền chắc, chống thấm tốt, có thể chở được 3-5 người đi mưu sinh.
Từ Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa đến Phú Yên, thúng đồng hành cùng ghe lớn, kéo lưới xa bờ, chịu sóng gió không thua kém gì ai. Quả là một sáng kiến độc đáo của người dân chài để đáp ứng địa hình sóng gió khắc ngh iệt – vừa rẻ, dễ sửa, vừa gọn nhẹ.
Nhiều làng chài Quảng Nam, Bình Định còn tổ chức lễ hội đua thúng, đua tài lắc thúng, múa thúng trên sông. Thuyền thúng ngày nay không chỉ chở cá tôm, mà còn chở cả giấc mơ du lịch cộng đồng. Những rừng dừa Bảy Mẫu (Hội An), sông Trà Bồng (Quảng Ngãi) hay rừng ngập mặn ven biển đều lưu giữ hình bóng chiếc thúng. Du khách lên thúng, nghe hát bả trạo, hát bài chòi, xem lắc thúng đầy ngoạn mục – mà thấu hiểu hơn về tinh thần chịu thương chịu khó, sự kiên cường trước mọi hiểm nguy và tình yêu biển mặn mà của bao thế hệ ngư dân.
Khi những chiếc thuyền thúng đưa khách du lịch nước ngoài đi giữa rừng dừa, họ vui thích cười đùa, trầm trồ, bấm máy ảnh lia lịa…, tôi thực sự thấy tự hào. Chiếc thúng bé nhỏ ấy không chỉ đưa du khách xứ lạ mắt xanh tóc vàng vào một chuyến tham quan, mà là đang mời họ đến với hành trình khám phá di sản dân tộc, một di sản khiêm tốn, cần mẫn, gói ghém cách sống uyển chuyển, giản dị mà thiêng liêng. Một vòng thúng quay như ôm trọn bao khát vọng của người chài lưới, chở hồn quê đi qua bao mùa sóng bạc đầu.
Thúng còn đó từ cha ông kỷ niệm,
Nhành tre xanh uốn dẻo mảnh tình quê.
Sóng biển bạc tay chèo chưa hề mỏi,
Thúng cứ quay, bão có đến, sợ gì?
Một chiếc thúng tròn, một vòng tre, vài sải mái chèo – mà nuôi nấng, nâng đỡ biết bao phận người. Cứ thế, vòng thúng quay, chuyện quê dài thêm, kỷ niệm neo lại. Và tôi, khi rời khỏi Phú Yên trời biển ngát xanh, vẫn nghe văng vẳng trong lòng mình tiếng sóng dạt dào khi mái chèo cắt nước đẩy thuyền trườn lên, như một lời thì thầm nhắc nhở: “Giữ lấy thuyền – thúng – vòng – tròn – sinh – mệnh là giữ lấy biển đảo quê hương.”
Viết từ Trại Sáng Tác Phú Yên tháng 7-2025
do Trung Tâm UNESCO Nghiên cứu Văn chương Việt Nam tổ chức.
Bài và ảnh: Hồng Minh Nhân
Sóng biển bạc tay chèo không hề mỏi,
Thúng cứ quay, vòng tròn chưa khép lại bao giờ 😀