TÌM HIỂU VỀ THƠ CỔ PHONG

 

 Người viết: Hương Thu

Thơ Cổ phong là gì?

Thơ Cổ phong hay người ta còn gọi là cổ thể. Cổ phong là phong cách xưa, cổ thể là thể cách của ngày xưa. Do vậy, thơ Cổ phong hay cổ thể là lối thơ làm theo thể cách của ngày xưa. « Ngày xưa » là khoảng thời gian được xác định so với sự có mặt của thể thơ luật thời nhà Đường. Nói một cách khác, thơ Cổ phong là lối thơ có trước thời nhà Đường bên Trung Quốc.

Số câu và số chữ trong thơ Cổ phong :

Số câu :

không hạn định, có thể làm dài ngắn bao nhiêu cũng được, miễn là từ bốn câu trở lên. Người sáng tác có thể làm 4 câu, gọi là tứ tuyệt, 8 câu gọi là bát cú, hay cũng có thể làm 6 câu, 12 câu tùy hứng… Nếu bài thơ dài quá 16 câu gọi là Trường thiên, hoặc dài từ 40 câu trở lên gọi là thể hành (chạy dài)

Số chữ trong câu : 5 chữ đối với thơ ngũ ngôn, và 7 chữ đối với thơ thất ngôn.

Thơ Cổ phong có niêm, luật, đối không ?

Thơ Cổ phong không khắc khe như thơ Đường luật, vì không phải theo các thể lệ về niêm, luật, đối…Người sáng tác vì vậy cũng tự do tung hoành hơn.

Cách gieo vần :

– Độc vận : là cả bài thơ chỉ gieo một vần duy nhất. Đến thời nhà Đường khi thơ luật xuất hiện, các tác giả cũng giữ lại cách gieo vần này cho thơ luật, vì vậy chúng ta có thể thấy cách gieo vần « độc vận » giống với cách gieo vần của thơ Đường luật ngày nay.

Thí dụ :

Thiên hạ mừng xuân khắp bốn phương

Sáo đàn tấu nhạc khúc nghê thường

Ta ngồi đối diện đêm trừ tịch

Muốn học người xưa nhấp tửu hương

Một chén mừng ta thêm tóc bạc

Chén này ta uống tặng người thương

Phần tư thế kỷ cùng chung bước

Cam khổ chia nhau những đoạn trường

Đời như dòng nước vô tình chảy

Ta khách lữ hành áo nhuốm sương

Gia ta một túi thơ đầy bụi

Bụi trắng vây hồn ta mấy chương

Quảy gánh hàn vi ra giữa chợ

Ta ngồi rao bán ở bên đường

Mượn năm rồi tiếp mười năm nữa

Món nợ cô hàn chất mấy rương

……………………………………………

( trích « Đối diện cùng xuân » của Hương Thu)

Xin đừng nhầm lẫn « độc vận » với « nhất tự », hay « độc tự ». Nhiều tác giả khi sáng tác thích chọn một từ duy nhất để gieo vần cho bài thơ, ví dụ chọn từ « Xuân », thì từ câu đầu đến câu cuối, các chữ vần đều gieo duy nhất một chữ « xuân ». Lối thơ này gọi là « nhất tự » hay « độc tự », khác với lối « độc vận ».

    – Liên vận : vần gieo theo lối « liên vận », có nhiều cách để gieo.

Cách 1 : vần gieo liên châu, tức là câu nào cũng là câu vần, nhưng cứ hai câu lại đổi vần

Thí dụ :

CẢNH TẠO HÓA

Đá xanh như nhuộm, nước như lọc

Cỏ cây hoa lá dệt như vóc

Trời quang mây tạnh gió hiu hiu

Ai thấy cảnh này mà chẳng yêu ?

Mới biết hóa công tay khéo vẽ

Không mực, không thước mà đủ vẻ

Tay người điểm xuyết ra nước non

Bể cạn non bộ nhỏ con con

Sao bằng tiêu dao cùng tạo hóa

Bốn mùa phong cảnh thật không giả

                             (không rõ tác giả)

Cách 2 : liên vận, cứ 4 câu đổi vần. Gieo vần theo cách này, bài thơ có thể chia làm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu

Thí dụ :

VUI CẢNH LÀM RUỘNG

Năm ngoái ruộng được mùa

Nhà ta bốn cót thóc

Ăn tiêu hãy còn thừa

Bán cho con đi học

 

Năm nay trời hạn hán

Mười phần thu được ba

Ăn tiêu đương lo thiếu

May ra được mùa cà

 

Con học không có tiền

Bố phải đi vay nợ

Nhà nghèo con học được

Còn hơn tiền chôn lỗ.

                  (không rõ tác giả)

Chúng ta thấy lối thơ này tương tự như thơ mới gieo vần « cách cú ».

Một vài lối thơ tiêu biểu của thơ cổ phong

    1. Ngũ ngôn bát cú :

ĐÊM MÙA HẠ

Tháng Tư đầu mùa hạ

Tiết trời thực oi ả

Tiếng dế kêu thiết tha

Đàn muỗi bay tơi tả

Nỗi ấy biết cùng ai

Cảnh này buồn cả dạ

Biếng nhắp năm canh chầy

Gà đà sớm giục giã

             NGUYỄN KHUYẾN

Mới đọc, thoạt nghĩ đây là bài Ngũ ngôn Đường luật, vì nó na ná như vậy, nhưng nếu các bạn đọc kỹ lại, sẽ thấy bài thơ không theo qui định về niêm luật của thơ Đường. Bài thơ này nhà thơ Nguyễn Khuyến sáng tác theo lối Cổ phong.

    1. Ngũ ngôn nhiều khổ ( cách gieo vần liên vận, 4 câu đổi vần)

Thí dụ :

VỀ ĐI CÀY

Hán tự chẳng biết Hán

Tây tự chẳng biết Tây

Quốc ngữ cũng tịt mít

Thôi đi về đi cày

 

Giống ngô và giống đậu

Cấy chiêm lại cấy mùa

Ăn không hết thì bán

Bán đã ông Tây mua

 

Được tiền thì mua rượu

Rượu say rồi cưỡi trâu

Cưỡi trâu thế mà vững

Có ngã cũng không đau

 

Ăn lương hàm chính thất

Thôi thôi thế cũng xong

Ví bằng nhà nước dụng

Phải bố tòa Canh nông

         TRẦN TẾ XƯƠNG

Cách 3 : Thất ngôn nhiều khổ

Thí dụ :

CHÚC TẾT

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu ?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ở trong đời.
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.

                                  TRẦN TẾ XƯƠNG

Khổ thơ cuối, có sách cho rằng không phải của Trần Tế Xương, bởi theo nhiều bản lưu, bài thơ chỉ có bốn khổ.

Đây là bài thơ nhiều người vẫn lầm tưởng là thơ Đường luật, vì Trần Tế Xương là một nhà thơ Đường. Thật ra bài này Trần Tế Xương sáng tác theo lối Cổ phong, tuy nhiên, ông vốn là người sáng tác thơ Đường luật, do vậy có những bài Cổ phong, ông vẫn giữ theo niêm luật thơ Đường luật, điều này cũng không có gì lạ.

One thought on “TÌM HIỂU VỀ THƠ CỔ PHONG

  1. Vy Vy Lucy says:

    Về cảm nhận cá nhân thơ cổ phong có những đặc điểm linh hoạt hơn nhiều so với thơ Đường luật, mang lại sự tự do nhất định cho người sáng tác, về số câu và số chữ, niêm luật lại là điểm khác biệt lớn nhất so với thơ Đường luật. Thơ cổ phong không có niêm, luật chặt chẽ như thơ Đường luật. Điều này có nghĩa là không có quy định nghiêm ngặt về việc phối hợp bằng trắc ở các vị trí cố định trong câu, giúp nhà thơ thể hiện cảm xúc và ý tưởng một cách tự nhiên hơn. Còn nói về đối việc sử dụng phép đối trong thơ cổ phong là tùy ý tác giả, không bắt buộc. Nếu có đối, thì phải đối cho chỉnh, tức là ý đối ý và chữ đối chữ cho đúng cách. Về vần mặc dù không bị ràng buộc bởi niêm luật, thơ cổ phong vẫn phải có vần để tạo nên chất thơ. Cách gieo vần rất linh hoạt:
    * Có thể độc vận (cả bài chỉ dùng một vần).
    * Có thể liên vận (dùng nhiều vần), và có thể đổi vần sau mỗi 2, 4 hoặc 8 câu. Khi đổi vần, câu đầu tiên có thể gieo vần hoặc không.
    * Thậm chí có thể dùng xen kẽ cả vần bằng và vần trắc trong cùng một bài thơ.
    – Nhìn chung tính chất thơ cổ phong thường mang đậm tính chất tự sự, trữ tình, thể hiện trực tiếp cảm xúc, suy tư của tác giả về cuộc sống, thiên nhiên, xã hội hoặc những sự kiện lịch sử. Do không bị gò bó, thể thơ này thường tạo ra những bài thơ có phong cách phóng khoáng, mạnh mẽ, thể hiện cái “tôi” cá nhân rõ nét hơn
    – Mong chờ add có thể giới thiệu thêm nhiều thể thơ hay để được thưởng lãm nhiều thể thơ và các án văn chương thi vị

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *