HỒNG MINH NHÂN
Tháng chín năm đó anh rủ “xách máy ảnh theo anh coi bò chạy rần rần hong?” Vốn không phải người ham những trò chơi cảm giác mạnh nên tôi ngần ngại lắc đầu. Anh bảo “lễ hội hay lắm, đi đi, anh dẫn em vào lạy Phật ở chùa Khmer, ngắm lúa đang mùa gặt, ngắm người ta chân lấm tay bùn, và cả ngấm vitamin D để gọt bớt cái làn da xanh eo ẻo của em!” Nghe bùi tai, tôi xách ba lô lên và muà thu của tôi bắt đầu bằng những ngày tràn ngập tiếng cười reo huyên náo của đám đông.
Chúng tôi khởi hành từ khi trời còn nhá nhem, lúc sương dầy từ cơn áp thấp nhiệt đới đêm qua vẫn còn ôm lấy những tán cây như một giấc mơ chưa kịp tan. Tháng chín là tháng An Giang vào mùa lúa chín. Những cánh đồng vàng óng nối tiếp nhau, trải dài đến tận chân trời, lấp lánh dưới nắng như được phết lên một lớp mật ngọt ngào, lúa ngả đầu vào nhau, xào xạc khúc ca cùng gió.
Anh cho xe chạy chầm chậm xuyên qua bức tranh đồng quê Thất Sơn. Tôi mở cửa kính xe thoả thích ngắm đàn cò trắng xôn xao đập cánh bay lên, bầy vịt rủ nhau rỉa cánh dưới ao, đàn trâu thong thả sục bùn trong vũng nước cạn và bầu trời xanh ngắt mây bay. Phong cảnh đồng quê mộc mạc yên bình quá, sự yên bình đó thấm vào tôi như nước rúc vào đất nẻ sau cơn mưa đầu mùa.
Khi những cơn mưa mát rượi vừa kịp đọng lại một lớp nước non sóng sánh trên mặt ruộng cũng là lúc vùng Bảy Núi rộn ràng bước vào Lễ Sen Dolta – lễ cúng ông bà tổ tiên của người Khmer. Và tại một ngôi chùa nhỏ bên sườn núi Cô Tô – Chùa Rô – có một lễ hội độc đáo diễn ra chỉ duy nhất mỗi năm một lần: đua bò.
Anh mua cho tôi một gói xôi phồng chợ Mới. Nếp dẻo chiên phồng như một quả bóng nhỏ vàng ươm, quyện cùng gà quay giòn rụm bốc mùi lên thơm phức. Anh bảo mình ăn xôi cho gọn để còn ra sớm xí chỗ, không thì lát chen ná thở, không còn góc chụp đẹp đâu. Qua thêm vài khúc cua, Chùa Rô hiện ra trong nắng, tiếng loa lễ hội vừa kịp vang lên…
Người ta kể rằng xưa kia khi người Khmer còn cấy mạ bằng tay, họ thường thi với nhau xem ai đi hàng thẳng hơn, ai nhanh hơn, ai dùng bò giỏi hơn. Ruộng khi ấy chưa có máy móc, cày bừa nhờ sức trâu bò là chủ yếu, nên người nào điều khiển được trâu bò tốt, cày ruộng ngay ngắn, thẳng hàng, không giẫm mạ – đều được kính trọng.
Chùa Rô có đất, các Phật tử trong vùng thay phiên nhau đến chùa làm công quả bằng cách trồng lúa. Rồi từ cuộc thi cấy lúa, người ta chuyển sang thi coi bò ai chạy nhanh hơn. Ban đầu chỉ là để thử sức, thử giống bò, nhưng càng thi thì càng vui, người coi càng đông, tiếng hò reo càng lớn. Dần dà, các vị sư trong chùa Rô đứng ra tổ chức đua bò, vừa để giữ gìn phong tục, vừa để tạo một điểm hẹn lễ hội cho bà con sau vụ mùa.
Đó không chỉ là cuộc đua của sức lực, mà còn là một nghi lễ của đất, để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Cũng giống như múa lân ngày Tết hay rước kiệu ngày Rằm, đua bò là một hình thức diễn xướng nông nghiệp, mà sân khấu chính là ruộng bùn – và diễn viên là người với bò, cùng nhau tấu lên bản nhạc của niềm tin và mùa màng, biến trò vui ruộng đồng thành một lễ hội náo nhiệt, đầy ý nghĩa.
Những người tham gia đua bò được gọi là “tài xế”. Các “tài xế” này không cầm vô lăng, không ngồi trong xe, cũng chẳng có ghế đệm hay dây an toàn. Họ là những người đàn ông rắn rỏi, đứng trên một chiếc bừa gỗ dày dặn, điều khiển đôi bò bằng đôi chân trần và một cây roi mỏng, cả người cả bò lướt trên mặt bùn như thể đang cưỡi gió. Đó là những “tay lái lụa” không trường dạy nào truyền dạy, chỉ có thể tích góp qua những mùa vụ, những cánh đồng, và cả… những cú ngã sấp mặt giữa vũng bùn.
Người xem không cần mua vé, người thi chẳng cần ăn diện gì, cứ xuềnh xoảng mà bước vào cuộc chơi. Mỗi năm có vô số khán giả khắp nơi kéo về – từ người Khmer, người Kinh, người Chăm bản địa đến du khách nước ngoài. Lễ hội thu hút rất nhiều nhiếp ảnh gia không chỉ cả nước mà còn ở nhiều quốc gia khác. Trường đua không phải là sân vận động, chỉ là một thửa ruộng xăm xắp nước, được nhà chùa chừa lại sau mùa gặt. Nhưng chính vì nhỏ, vì gần, nên không khí càng nóng hừng hực.
Hai người dẫn chương trình, một nói tiếng Việt, một nói tiếng Khmer, song ngữ luân phiên dẫn dắt chương trình trong tiếng nhạc Khmer hết sức du dương, họ duyên dáng khuấy động không khí trong những tiếng hò reo, vỗ tay rộn rã. Người Khmer cổ quấn khăn rằn, người Việt mặc bà ba, người Chăm trong áo dài truyền thống – mỗi tiếng nói là một nhịp cầu văn hóa, nối liền ba cộng đồng trên cùng rẻo đất Thất Sơn. Mỗi lần có hai cặp bò cùng đua, theo hai vòng, với tên gọi: vòng hô (chào sân, làm quen), vòng thả (chạy nước rút, tranh thắng thua).
Những người đua bò được dân ở đây gọi là “tài xế”. Tôi thấy họ có gì đó trông giông giống nhau, rắn rỏi, sạm nắng, gân tay nổi cuộn, ánh mắt sắc như lưỡi cày vừa được mài. Có người gắn bó với bò hàng chục năm, có người mới vào nghề nhưng đầy máu lửa. Họ và bò như hiểu nhau từng ánh nhìn, từng cú giật dây, từng tiếng thở. Bò đua thường màu trắng, thân hình thanh mảnh, như thể bị bỏ đói nhưng thật ra dinh dưỡng rất kỹ, nhiều chủ bò còn cho chúng uống bia để khỏe (?), tai bò đua nhỏ hơn, chân cũng rắn rỏi hơn nhưng móng thì to chắc hơn nhiều.
Anh tìm được cho tôi một chỗ ngồi dưới bóng cây, sau lưng tôi là chùa Rô mái nhọn tuổi đời trên 400 năm.
Khi hiệu lệnh vang lên, đôi bò bật chân lao đi thần tốc. Nước bùn bắn tung tóe, mỗi cú vung chân là một đợt sóng nhỏ. “Tài xế” giữ thăng bằng như làm xiếc, đứng thẳng trên chiếc bừa gỗ lướt qua mặt nước, tay cầm roi, miệng hét lớn. Mỗi vòng đua ngắn thôi nhưng châm ngòi thiêu đốt bầu không khí náo nhiệt.
Thỉnh thoảng có mấy em bò không rõ vì ương bướng hay vì ngơ ngác bỏ đường đua phi thẳng về phía khán giả. Thế là tiếng cười, tiếng la hoảng hốt thích thú ré lên khắp nơi. Nếu đôi bò bị lệch đường hoặc tự nhiên dừng lại xem như thua. Khi gần đến vạch đích, khung cảnh trở nên nghẹt thở. Không chỉ người đua gồng mình mà cả khán giả, phóng viên, nhiếp ảnh gia… nhịp tim cũng tăng vọt. Vì trường đua nhỏ, ngoài những người thích chụp góc cao, leo tuốt ngọn cây, chốt luôn ở đó cho mát thì những người khác phải ngồi sát mép ruộng, thậm chí nằm rạp để canh góc thật thấp, bắt khoảnh khắc bùn văng, vó giậm, phản chiếu xuống mặt nước.
Khi thấy đôi bò hăng máu lao về phía mình chừng vài mét, dù đang bấm máy, đang canh nét, hay chưa kịp đổi tốc độ khẩu độ, cả dãy nhiếp ảnh gia bỏ chạy như ong vỡ tổ, tay nhắn cò bấm máy mà chân đã nhấc khỏi đất. Người bị trượt bùn, người rơi mất nón, người thì… vẫn cố bấm một tấm trước khi phóng ra ngoài.
Một anh nhiếp ảnh gia tuy đã rất cảnh giác nhưng đôi bò “quá nhanh quá nguy hiểm” đã khiến anh bật ngửa, ngã sóng xoài giữa những đôi chân rất khỏe, vậy mà giữa tai nạn cận kề, anh vẫn cười tươi rói trong tiếng hò reo la ó của bạn bè chung quanh.
Thấy tôi cuống cuồng quăng luôn một chiếc dép còn vướng trong bùn mà chạy khi bò phóng thẳng vào tôi với vận tốc không thể đoán trước được. Bùn dính đầy chân, bám đầy chiếc quần jean đen mới mua của tôi. Nhìn tôi hớt hải, anh khoái chí bật cười sảng khoái, rồi nói: “đây là đặc sản của đua bò Chùa Rô”, tôi cũng ngượng nghịu cười theo. Không chỉ là một lễ hội, cuộc chơi đúng là một niềm vui dấn thân.
Dù chẳng có giải thưởng lớn, không có bảng điện tử hiện thời gian, nhưng mỗi “tài xế” đều là người hùng, mỗi đôi bò đều là niềm tự hào. Những khán giả ướt bùn, những phóng viên suýt chút rớt máy, những em bé đòng đòng trên cổ cha với tàu lá chuối dại bên đường hái vội che nắng, những khách nước ngoài da đỏ ửng thỏa thuê thét gào dưới nắng – tất cả đều là một phần của bản hòa âm trọn vẹn.
Lễ hội đua bò An Giang được xếp hạng Di sản văn hóa cấp quốc gia năm 2015, và quan trọng hơn nó đã được công nhận trong tim người dân như một tài sản quý giá được trao lại từ đời ông cha. Chùa Rô – tuy nhỏ, nằm lặng giữa cánh đồng gió thu lồng lộng, mỗi mùa lễ về, trong vạt nắng long lanh tháng chín, áo vàng sư thầy hòa cùng áo nâu nông dân, lom khom lễ cấy mạ cho vụ mùa sau, tiếng trống, tiếng bò, tiếng người, tiếng hò reo… làm sống dậy những giá trị cộng đồng, lòng biết ơn đất mẹ, và truyền thống gắn bó bền bỉ giữa người – vật – đất. Trong thời đại mọi thứ chạy theo tốc độ, danh hiệu và hào quang, lại có những mùa lễ hội không cần hào nhoáng. Chỉ cần một đôi bò, một chút đất, một chút nước, và rất nhiều tấm lòng chung tay góp sức – là đủ để niềm vui lan rộng, ký ức mọc rễ.
Tan lễ hội, chúng tôi rời chùa Rô. Tôi đi bên anh qua những lối đất mềm, qua những vạt cỏ lấm lem đầy dấu chân người. Quần áo chúng tôi dính đầy bùn, nhưng không ai bận lòng. Vì có những vết dơ mà không bẩn, chúng chứng minh rằng ta đã có mặt, đã sống trọn vẹn trong một khoảnh khắc đặc biệt, trong một ngày khó quên đến thế.
Tôi ngoái đầu nhìn lại mái chùa đầy cánh chim bồ câu bay lượn, hàng cây giá tỵ trổ hoa vàng suộm, gió mùa gặt xạc xào, những bông lúa cuối ngày nghiêng đầu như vừa trải qua một cuộc đua dài cùng nắng, cùng mưa, cùng người.
Trở lại Sài Gòn, tôi lại chúi đầu vào công việc, những dự án ngổn ngang, những cuộc họp nối nhau. Mỗi ngày là một nhịp chạy không có khoảng nghỉ. Anh cũng trở lại với cuộc sống cô độc, lang bạt đó đây, với những kế hoạch còn dang dở. Ngoài những tấm hình chụp cho nhau được gửi qua với những cái icon đầy biểu cảm hóm hỉnh… ting ting vài hôm, rồi mọi thứ như những cơn sóng nhẹ dần tan trên mặt hồ quanh năm yên tĩnh, chúng tôi không hẹn hò, không gọi điện. Lâu lâu anh text một câu hỏi thăm rất gọn chỉ một, hai từ, tôi nhấn vài cái like, thỉnh thoảng chúng tôi lướt qua nhau trên mạng xã hội, dừng lại wall nhau lâu hơn những người bạn khác, thả một trái tim đỏ thắm, cười tủm tỉm như thể người đó đang ở ngay trước mặt và đang cười với mình. Chúng tôi không cần gọi tên mối quan hệ ấy, vì có lẽ, những tình cảm đẹp đôi khi không cần một danh xưng nào để ràng buộc.
Không phải điều gì cũng cần có đầu có cuối. Có những mối duyên, chỉ cần đến rồi đi trong tỉnh thức, để lại một vệt bùn trên chân, một đốm sáng nhỏ trong tim – với tôi vậy cũng là đủ.
Anh có lần bảo: Em như một áng mây, trôi ngang đời anh, trôi xa, trôi mất… mà vẫn để lại bóng mát. Chúng tôi đã chọn giữ nhau ở một nơi mà thời gian không thể chạm tới.
Vì tháng chín lại về, muà đua bò lại đến
Bài và ảnh: Hồng Minh Nhân