tác giả: NHẬT LỆ GIANG
Người Sài Gòn xưa khi ra phố
Sài Gòn được mệnh danh là thành phố trẻ, bởi sự hình thành của nó mới hơn 300 năm. So với những thành phố lớn, cổ kính như: Hà Nội, Huế… Sài Gòn như một chàng thanh niên trẻ trung và năng động, song không phải vì thế mà Sài Gòn nói riêng và Sài Gòn Gia Định nói chung không có bề dày lịch sử hình thành và phát triển. Qua thơ ca dân gian, đây là mảng văn chương truyền khẩu khá thú vị, đã cho chúng ta biết một Sài Gòn – Gia Định đã đi cùng với lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta như thế nào.
Anh đi anh quyết trở về/ Đem đầu thằng giặc Pháp, cho trọn lời thề với em.
Những người trẻ tuổi Sài Gòn thời đấy, họ yêu nhau không phải thề non hẹn biển, sống với nhau đến răng long đầu bạc như thanh niên bao thế hệ khác, tình yêu đất nước lớn hơn, đủ cho họ xếp lại tình riêng nhỏ bé. Chàng trai ra đi mang một quyết tâm sẽ “Đem đầu thằng giặc Pháp” trở về. Lời thề của chàng với người yêu chắc như đinh đóng cột “bao giờ đánh đuổi hết giặc Pháp anh mới trở về”. Song, trong cuộc đấu tranh để giành độc lập tự do cho dân tộc đầy khó khăn và gian khổ, có ai nói trước được điều gì, vì vậy, đôi lúc những chàng trai miền Nam ra đi không dám hẹn ngày trở lại, bởi lo người con gái mình yêu chờ đợi lỡ cả xuân thì.
Giặc Tây đánh tới Cần Giờ/ Biểu đừng thương nhớ, đơi chờ uổng công.
Thanh niên thì kiên cường như vậy, còn phụ nữ thì sao? Những câu hát dân gian xuất xứ từ Sài Gòn – Gia Định đã cho thấy họ luôn là một hậu phương vững chắc cho chồng yên tâm lên đường đánh giặc:
Anh đi đánh giặc Lang Sa/ Để thiếp ở nhà lo tần lo tảo/ Chén cơm, manh áo, nhà cửa, ruộng vườn/ Anh lo lên ngưa đề thương/ Thiếp về mặc thiếp, liệu lường nuôi con.
Lời người vợ tiễn biệt chồng nghe thương đứt ruột. Bao gánh nặng gia trang, người phụ nữ Việt Nam nói chung, và phụ nữ Sài Gòn – Gia Định thời ấy nói riêng, sẵn sàng gánh vác để chồng lên đường chống giặc ngoại xâm. Họ không hề nao núng “Thiếp về mặc thiếp, liệu lường nuôi con”. Nghĩa là họ sẽ làm được, cỡ nào cũng làm được. Họ sẽ vừa làm mẹ, vừa làm cha và sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Trong khoảng thời gian từ năm 1861 đến 1879, nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra. Nhà cầm quyền Pháp tổ chức những cuộc truy lùng, bắt bớ nghĩa quân đem xuống tàu chở đi đày. Người Sài Gòn đã ghi lại sự kiện đó qua văn chương truyền khẩu: Ngó ra ngoài biển mù mù/ Thấy tàu ông Thượng chở tù về Tây. “Ông Thượng” chỉ Thượng thư, nghĩa là Đô đốc Pháp. “Tù” là những nghĩa quân của ta.
Tinh thần kháng chiến chống Pháp của nhân dân Sài Gòn – Gia Định qua ca dao và các câu hát dân gian, còn cho thấy một sự đoàn kết đấu tranh đến quyết liệt để giành lại tự do cho dân tộc.
Sông Bến Nghé tàu phun khói mịt/ Chợ Bến Thành súng bắn nổ vang/ Cả tiếng kêu các tổng, các làng/ Đứng lên đuổi bọn xâm loàn về Tây. “Cả tiếng kêu” nghĩa là “lớn tiếng kêu”.
Trong kháng chiến, người Sài Gòn – Gia Định kiên cường bao nhiêu, trong cuộc sống họ càng ấm áp bấy nhiêu:
Rồng chầu ngoài Huế/ Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài/
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
Với người Sài Gòn là vậy. Họ phóng khoáng và sẵn sàng cưu mang những người thất cơ lỡ vận, họ luôn mở lòng với những kẻ lạc loài không nơi nương tựa. Người ta nói người Sài Gòn “ruột để ngoài da”, không phải là họ không sâu sắc, cái chính là họ sống thật, không màu mè, “bằng mặt mà không bằng lòng” không phải là tính chất của người Sài Gòn. Người Sài Gòn nghĩ sao nói vậy. Nghĩ là làm, không phân vân tính toán thiệt hơn:

Đôi lứa ta thương nhau, thương dại thương dột/ Thương lột da óc, thương tróc da đầu/ Ngủ đi thì chớ, thức dậy lại thương/ Giục giã bương cương, lên đường thượng lộ/ Trời hỡi trời mới ngộ … quá xa!
Đúng là bản chất Nam bộ, bản chất Sài Gòn thứ thiệt.
Người Sài Gòn – Gia Định chân chất nhưng vô cùng lễ nghĩa. Thương nhau, nhưng địa lý cách chia, người con trai muốn gửi thư thăm hỏi người yêu, nhưng chàng giữ phép tắc, lễ nghĩa, dù nôn nóng, nhưng cũng phải hỏi thăm phụ mẫu trước rồi mới đến người yêu. Đó chính là tính cách của người miền Nam nói chung, và người Sài Gòn – Gia Định nói riêng.
Cách một con sông kêu rằng cách thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.
Sài Gòn – Gia Định vốn là mảnh đất dung nạp người tứ xứ, trước đây nhiều lưu dân Việt đã đến đây lập nghiệp vì “Đất lành chim đậu”, nhưng không vì thế mà Sài Gòn – Gia Định không có đặc sản riêng, trái lại rất phong phú và đa dạng:
- Biên Hòa có bưởi Thanh trà/ Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.
- Ở đâu mà chẳng biết ta/ Ta ở Thủ Đức vốn nhà làm nem
- Hết gạo thì có Đồng Nai/ Hết củi thì có Tân Sài chở ra
- Trầu Sài Gòn xé ra nửa lá
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi
Hay là anh quyết ở đời với em.
- Mời anh ly đế Gò Đen
Uống vô thấm giọng cùng em hẹn hò.
Đó là những đặc sản đã trở thành thương hiệu tự lâu đời ở đất Sài Gòn – Gia Định: Bưởi Thanh trà Biên Hòa, nem nướng Thủ Đức, thuốc lá Gò Vấp, rượu đế Gò Đen… vv…
Người Sài Gòn – Gia Định sống chân thật, yêu là yêu hết mình.
Ghe anh lui về Gia Định/ Em thọ bịnh đau liền/ Không tin anh hỏi lại xóm giềng có không?
Cô gái mới xa người yêu chưa đầy một phút, đã “Thọ bịnh đau liền” vì tương tư. Vậy mới nói, người Sài Gòn họ yêu sống chết là vậy.
Anh gặp em chưa kịp trao lời
Kiểng Ba Son đổ, rã rời nhau ra.
Yêu rất mực, nhưng người Sài Gòn cũng biết phân định giữa nhiệm vụ với tình yêu, chàng công nhân Ba Son dù rất muốn nán lại giây phút để tâm tình với người yêu, nhưng anh chàng vẫn không quên nhiệm vụ.
Ca dao và những câu hát, điệu hò dân gian đã phản ánh rất rõ nét về tính chất và đặc điểm của người Sài Gòn – Gia Định. Đó là một mảng văn chương dù chỉ là truyền khẩu song cũng đã thâm nhập được vào đời sống văn học của đại đa số quần chúng nhân dân Sài Gòn – Gia Định qua bao thế hệ, và tự nó đã khẳng định được vị trí trên văn đàn Việt Nam nhiều thế kỷ qua.
Ảnh: René Burri













Đọc bài viết, lòng tôi chộn rộn như vừa nghe lại những câu hát thân quen từ thuở nhỏ. Là người sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, tôi thấy thấm điều bài viết muốn nói: Sài Gòn trẻ, nhưng không hời hợt; mới, nhưng không vô căn. Ẩn trong từng câu ca, điệu hò là cái tình, cái nghĩa, cái gan ruột thẳng ngay của người Sài Gòn – Gia Định xưa.
Thấy thương người con gái “liệu lường nuôi con”, nghe mà như thấy bóng bà, bóng mẹ mình tảo tần giữa nắng mưa. Còn mấy câu về “bưởi Thanh trà Biên Hòa, nem nướng Thủ Đức” thì lại gợi cả một vùng ký ức bình dị, nơi người sống mộc mạc, nói sao làm vậy, “nói cái làm ngay”, thương ai là thương tới bến.
Bài viết không chỉ kể chuyện ca dao – nó còn kể chuyện con người, một Sài Gòn nghĩa tình, phóng khoáng, trọng chữ tín và biết yêu đến tận cùng, Sài Gòn dù thay da đổi thịt mỗi ngày, nhưng cái hồn nghĩa khí, bao dung của đất này – vẫn còn đó, chảy trong từng người con sống nơi đây.
Cám ơn tác giả đã gom góp ca dao, dân ca truyền khẩu về tâm hồn và bản sắc Sài Gòn – Gia Định, khéo léo phục dựng hình ảnh một Sài Gòn trẻ trung nhưng giàu truyền thống, vừa kiên cường vừa nghĩa tình vừa bao dung.